04/06/2017, 00:32
Phân tích đoạn trích Cha con nghĩa nặng trong tác phẩm cùng tên của Hồ Biểu Chánh.
"Chở bao nhiêu đạo thuyền không thẳm..." chẳng biết câu thơ của nhà thơ Nam bộ Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng trực tiếp tới quan điểm sáng tác của Hồ Biểu Chánh hay không? nhưng xét về một mặt nào đó, có thể nói con thuyền văn chương của nhà thơ trung đại và nhà văn hiện đại này đều mang ...
"Chở bao nhiêu đạo thuyền không thẳm..." chẳng biết câu thơ của nhà thơ Nam bộ Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng trực tiếp tới quan điểm sáng tác của Hồ Biểu Chánh hay không? nhưng xét về một mặt nào đó, có thể nói con thuyền văn chương của nhà thơ trung đại và nhà văn hiện đại này đều mang nặng một thứ hàng vốn vô tận và vô giá: đạo lí. Tôi muốn nói cảm hứng bao trùm lên sự nghiệp thơ văn của cả hai tác giả này là cảm hứng đạo lí.
Bốn năm trước khi Đồ Chiểu mất (1888), Hồ Biểu Chánh đã ra đời. Phải chăng con đường văn chương đạo lí của nhà văn họ Hồ chính là một sự kế tục nào đó của tinh thần đạo lí của bậc tiền bối kia? Với một sự nghiệp văn chương đồ sộ - hơn 60 cuốn tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh xứng đáng là một tiểu thuyết gia đã góp phần dựng nên từ buổi sơ khai của thế kỉ này cái nền móng vững chắc cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Một thế kỉ đã qua đi, trong văn chương Hồ Biểu Chánh, dĩ nhiên có những phần, những phía không chịu được thử thách của thời gian. Song có những giá trị đã vượt qua tình trạng sơ khai, vẫn có thể làm cảm động lòng người đọc cuối thế kỉ này, và hẳn nó chưa chịu dừng lại ở đây. Bởi vì, đạo lí làm người một khi đã trở thành tâm huyết lớn của cả đời văn, đã hóa thân thành những hình tượng có sức sống lớn thì nó sẽ đem lại cho văn chương khả năng trường tồn ở một phạm vi hẹp hơn, chừng nào văn còn có khả năng cảm động con người, chừng ấy nó không cũ. Đọc trích đoạn cha con nghĩa nặng người đọc đã có được ở đây một sự cảm động như thế.
Đúng là văn xuôi đã tự làm giàu cho mình bằng cách vay mượn, tận dụng, kế thừa ưu thế của những loại khác, cho nên chúng ta thấy có loại văn xuôi giàu chất thơ,, có loại đậm chất sử thi, có loại đầy kịch tính, có loại lại khoác thêm ca luận lý, triết học nữa... đọc những tác phẩm như thế người đọc có thể làm giàu cho thị hiếu của chính mình.
Cha con nghĩa nặng là một câu chuyện đầy kịch tính mà người ta có thể dễ dàng chuyển thể thành một tác phẩm sân khấu toàn bộ câu chuyện là một chuỗi kế tiếp những sự kiện có tính chất xung đột, mâu thuẫn. Gia đình Tần Văn Sửu đang êm ấm bỗng nhiên tan nát. Đầu mối là việc ngoại tình của cô vợ lăng loàn, đàng điếm.
Chồng phản ứng thì vợ đã không biết điều, lại có thái độ hỗn hào, láo xược. Tức quá không kiềm chế được, Sửu đã xô vợ thật không may vợ đã ngã và chết. Vô tình, Sửu thành kẻ giết vợ. Sửu bỗng nhiên thành kẻ phạm pháp và vô đạo. Sửu phải bỏ trốn. Anh ta luôn phải đối mặt với pháp lý và đạo lí. Pháp lý thì có thể trốn khỏi sự truy nã, nhưng đạo lí thì không trốn được tình phụ tử. Muốn được yên thân anh phải trốn tránh. Nhưng muốn được sống đúng đạo người cha, anh ta phải trở về. Lẩn trốn cả đời thì lỗi đạo làm cha. Còn trở lại có thể nguy hiểm đến tính mệnh. Ấy là mâu thuẫn giằng xé trong anh ta ở phần trước. Còn đến đây thì đã qua. Anh đã trở về nghĩa là tình phụ tử đã chiến thắng ý thức bảo mạng. Tình phụ tử đã khiến anh ta mạo hiểm trở về. Như vậy cuộc đấu tranh bên trong, anh ta là sự giằng co quyết liệt giữa đạo lí và phản đạo lí, giữa nhân đạo và phi nhân đạo! Mỗi lần anh ta vượt lên được những tiếng nói ngáng trở, là một lần đạo lí giành chiến thắng.
Nhưng giờ đây, anh ta đang đối mặt với một tình huống mới, đang bước vào một mâu thuẫn xung đột mới.
Mấy năm nay Sửu đi biệt tích. Cả làng xóm và gia đình đều yên chí rằng Sửu đã chết. Trong thời gian đó hai đứa con của Sửu được sự chăm sóc của ông ngoại, đã lớn lên và khá giả hơn. Hiện thời, đứa con gái sắp lấy chồng, đứa con trai cũng đương được mai mối để cưới vợ. Nếu Sửu xuất hiện, mọi chuyện vỡ lỡ chắc sẽ đổ bể hết.
Đoạn trích ví như một màn kịch, thì màn kịch được dàn thành hai lớp kịch chính vừa kế tiếp vừa có phần chồng chéo lên nhau: cảnh Trần Văn Sửu gặp bố vợ hương thi Tào và cảnh Trần Văn Sửu gặp con trai là thằng Tí. Mỗi cảnh là một mâu thuẫn nhỏ, cả hai cảnh nằm trong một xung đột lớn. Ở đây cŨng thấy toát lên cái đạo lí làm người, phụ tử tình thâm "Cha con nghĩa nặng".
Phải nói ngay rằng xung đột kịch ở đây thuộc về hoàn cảnh chứ không phải tính chất. Các nhân vật tham gia màn kịch này đều là những con người đạo lí, một người ông chí nghĩa, người cha chí tình và người con chí hiếu. Họ đấu tranh với nhau không phải chiến đấu với những tương phản trong tính cách của cá nhân, mà xét đến cùng là các cá nhân ấy đang đấu tranh với sự nghiệt ngã của hoàn cảnh, của tình huống.
Trong quan hệ với Trần Văn Sửu, hương thị Tào là bố vợ. Dù rằng con rể vô tình giết chết con gái của mình, nhưng ông không phải là kẻ rối trí hẹp tâm khiến thù hận Trần Văn Sửu. Ông vẫn dành cho Sửu sự cảm thông, thương xót. Có lúc lòng ông có gợn lên thoáng hận nào đó, ấy là khi ông mắng chửi một câu: "Mày thực là đồ khốn nạn lắm!" . Nghĩ cho cùng đó là cái phản ứng dễ có của một người cha bị mất con gái. Song, nó cũng chỉ là thoáng qua. Chi tiết ấy cho thấy Hồ Biểu Chánh hiểu lòng người chứ không chạy theo nhu cầu lý tưởng hóa một chiều để hoàn toàn đơn giản hóa tình cảm vốn phức tạp của con người. Tràn ngập lòng hương thị Tào vẫn là cảm thông. Ông đã sẵn sàng tha thứ, và đã tha thứ từ lúc nào rồi: "Thôi chuyện cũ bỏ đi! " Và trước sự đau đớn của con rể, ông đã không cầm lòng được: "Hương Thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì cảm động quá, không chịu nổi, nên ông cũng khóc". Tình huống đặt ra với hương thị Tào là có nên hay không nên đáp ứng nguyện vọng thiết tha của con rể muốn gặp được hai đứa con của mình trong chốc lát. Có lẽ không phải là xung đột giữa một bên là sở nguyện của con rể, một bên là hạnh phúc của hai cháu ngoại mà thực ra là xung đột giữa tình thương nhỏ và tình thương lớn. Sự giằng xé của nhùng tình cảm ấy khiến ông đau khổ. Đuổi Sửu đi không phải là ghét bỏ Sửu mà vì thương, vì sợ Sửu xuất đầu lộ diện sẽ nguy hiểm đến tính mệnh và làm hỏng việc đại sự trăm năm của con Sửu. Cuối cùng tình thương lớn đã thắng. Cái việc đuổi Sửu đi ngay có vẻ như tàn nhẫn nhưng không phải. Nói đúng hơn là tàn nhẫn bề ngoài, vì cực chẳng đã. Còn bên trong là tình cảm sâu sắc gắn với một tầm nhìn xa của một người cha. Ông giục Sửu đi sau khi đã nói rõ điều hơn lẽ thiệt cho con rể. Và đến đây xung đột của cảnh thứ nhất được giải tỏa. Sửu phải nén đau khổ để ra đi. Nhưng trong lòng anh đang dâng lên niềm hạnh phúc. Sửu ra đi không gặp con chính là chấp nhận hi sinh: Hi sinh niềm hạnh phúc nhỏ của mình gặp các con vì hạnh phúc lớn của con cái để chúng được yên ổn với những cuộc hôn nhân đang hứa hẹn. Cảnh thứ nhất khép lại với hành vi đầy cảm xúc của Sửu trước sự cảm thông và lòng độ lượng của nhạc phụ: "Trần Văn Sửu chắp tay xá cha vợ rồi đội nón lên và bươn bả bước ra vội".
Nếu dừng lại ở đó không thôi thì Cha con nghĩa nặng mới chỉ hiện ra một phía, ấy là cha vợ và con rể. Đây chưa phải là phần trọng tâm của tình phụ tử mà Cha con nghĩa nặng muốn nói đến. Sau khi Trần Văn Sửu vừa đi khỏi, thằng Tí ở trong nhà dò cửa chui ra. Điều này càng thấy rõ tính chất chuyên cảnh của sân khấu. Và cảnh thứ hai mở cửa ra.
Trước Trần Văn Sửu chỉ muốn sống để gặp con, giờ anh ta chỉ muốn chết để con bình yên. Nếu như ở cảnh trước chỉ nghiêng về đối thoại, thì đến đây "sân khấu” mở rộng hơn, hành động của nhân vật phong phú hơn. Thằng Tí cố đuổi theo để gặp cha; cha nó lại ngỡ là người làng đuổi bắt, nên con chạy càng gấp, cha chạy càng nhanh. Tình tiết cười ra nước mắt.
Có lẽ ai cũng thấy điều này; tình cảm ở các nhân vật ở đây thật phân minh. Bố vợ đã không vì mất con gái mà thù oán con rể, con không vì cha làm mẹ chết oan mà oán hận cha. Rồi đến khi, hận thù mẹ. Người đọc rất cảm động trước sự phân minh, ràng rẽ ấy. Hãy nghe Trần Vãn Sửu nói với con: "Con không nên phiền trách má con. Má con có quấy là quấy với cha, chứ không quấy với con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, sao con còn nhớ làm chi?".
Tuy nhiên, mâu thuẫn cơ bản ở cảnh thứ hai này chưa phải ở những điều đó. Thằng Tí muốn cha nó quay lại, muốn được sống cùng cha, muốn phụng dưỡng cha. Ấy là lòng hiếu nghĩa. Nhưng nếu làm được như thế thì người cha sẽ bị làng bắt, tính mệnh của cha sẽ nguy hiểm và hạnh phúc của nó chắc cũng bị đe dọa. Vậy mâu thuẫn ở đó là mâu thuẫn giữa tình thương cha và hạnh phúc của mình. Sâu xa hơn nữa là mâu thuẫn giữa lòng vị tha và lòng vị kỷ. Thằng Tí đã sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình để chăm sóc và che chở cha nó, về phía Trần Văn Sửu cũng sa vào mâu thuẫn. Nếu Sửu bỏ đi biệt thì coi như từ nay mất hẳn hai con, nhưng các con lại được hạnh phúc. Còn quay lại thì được sống trong tình phụ tử ít nhiều nhưng vô tình làm tan hạnh phúc của con. Và người cha cũng quyết chọn con đường hy sinh cái nhu cầu nhỏ của mình để làm tròn cái bổn phận lớn của người cha. Sự lựa chọn đầy tính vị tha của hai con dẫn đến mâu thuẫn giữa cha con: cha thì nhất quyết đi, con thì nhất quyết không rời cha. Nghe theo đứa con không phải nghĩ đến hạnh phúc của mình. Ngược lại nghe theo con chẳng qua là đành lòng nhượng bộ con, nghĩa là cũng vì con thôi!... cuối cũng tình thương con cả đã chiến thắng.
Kịch phản ánh cuộc đời thông qua các xung đột mâu thuẫn. Cha con nghĩa nặng không phải là tác phẩm kịch, nhưng là một tác phẩm văn xuôi giàu yếu tố kịch. Kịch tính ở đây là vẻ đẹp độc đáo của nguyên truyện này. Câu chuyện dựng lên cảnh ngộ thương tâm của con người trong cuộc đời. Người ta thấy đạo lí làm người là bất diệt. Dù con người có bị đẩy vào những hoàn cảnh nghiệt ngã đến đâu, con người vẫn cứ kiêu hãnh làm người. Với tư tưởng ấy có thể xem cha con nghĩa nặng là một khúc khải hoàn ca của đạo lí đã vang lên, đã vọng về từ đầu thế kỷ. Và có lẽ nó còn vang vọng mãi.
Đúng là văn xuôi đã tự làm giàu cho mình bằng cách vay mượn, tận dụng, kế thừa ưu thế của những loại khác, cho nên chúng ta thấy có loại văn xuôi giàu chất thơ,, có loại đậm chất sử thi, có loại đầy kịch tính, có loại lại khoác thêm ca luận lý, triết học nữa... đọc những tác phẩm như thế người đọc có thể làm giàu cho thị hiếu của chính mình.
Cha con nghĩa nặng là một câu chuyện đầy kịch tính mà người ta có thể dễ dàng chuyển thể thành một tác phẩm sân khấu toàn bộ câu chuyện là một chuỗi kế tiếp những sự kiện có tính chất xung đột, mâu thuẫn. Gia đình Tần Văn Sửu đang êm ấm bỗng nhiên tan nát. Đầu mối là việc ngoại tình của cô vợ lăng loàn, đàng điếm.
Chồng phản ứng thì vợ đã không biết điều, lại có thái độ hỗn hào, láo xược. Tức quá không kiềm chế được, Sửu đã xô vợ thật không may vợ đã ngã và chết. Vô tình, Sửu thành kẻ giết vợ. Sửu bỗng nhiên thành kẻ phạm pháp và vô đạo. Sửu phải bỏ trốn. Anh ta luôn phải đối mặt với pháp lý và đạo lí. Pháp lý thì có thể trốn khỏi sự truy nã, nhưng đạo lí thì không trốn được tình phụ tử. Muốn được yên thân anh phải trốn tránh. Nhưng muốn được sống đúng đạo người cha, anh ta phải trở về. Lẩn trốn cả đời thì lỗi đạo làm cha. Còn trở lại có thể nguy hiểm đến tính mệnh. Ấy là mâu thuẫn giằng xé trong anh ta ở phần trước. Còn đến đây thì đã qua. Anh đã trở về nghĩa là tình phụ tử đã chiến thắng ý thức bảo mạng. Tình phụ tử đã khiến anh ta mạo hiểm trở về. Như vậy cuộc đấu tranh bên trong, anh ta là sự giằng co quyết liệt giữa đạo lí và phản đạo lí, giữa nhân đạo và phi nhân đạo! Mỗi lần anh ta vượt lên được những tiếng nói ngáng trở, là một lần đạo lí giành chiến thắng.
Nhưng giờ đây, anh ta đang đối mặt với một tình huống mới, đang bước vào một mâu thuẫn xung đột mới.
Mấy năm nay Sửu đi biệt tích. Cả làng xóm và gia đình đều yên chí rằng Sửu đã chết. Trong thời gian đó hai đứa con của Sửu được sự chăm sóc của ông ngoại, đã lớn lên và khá giả hơn. Hiện thời, đứa con gái sắp lấy chồng, đứa con trai cũng đương được mai mối để cưới vợ. Nếu Sửu xuất hiện, mọi chuyện vỡ lỡ chắc sẽ đổ bể hết.
Đoạn trích ví như một màn kịch, thì màn kịch được dàn thành hai lớp kịch chính vừa kế tiếp vừa có phần chồng chéo lên nhau: cảnh Trần Văn Sửu gặp bố vợ hương thi Tào và cảnh Trần Văn Sửu gặp con trai là thằng Tí. Mỗi cảnh là một mâu thuẫn nhỏ, cả hai cảnh nằm trong một xung đột lớn. Ở đây cŨng thấy toát lên cái đạo lí làm người, phụ tử tình thâm "Cha con nghĩa nặng".
Phải nói ngay rằng xung đột kịch ở đây thuộc về hoàn cảnh chứ không phải tính chất. Các nhân vật tham gia màn kịch này đều là những con người đạo lí, một người ông chí nghĩa, người cha chí tình và người con chí hiếu. Họ đấu tranh với nhau không phải chiến đấu với những tương phản trong tính cách của cá nhân, mà xét đến cùng là các cá nhân ấy đang đấu tranh với sự nghiệt ngã của hoàn cảnh, của tình huống.
Trong quan hệ với Trần Văn Sửu, hương thị Tào là bố vợ. Dù rằng con rể vô tình giết chết con gái của mình, nhưng ông không phải là kẻ rối trí hẹp tâm khiến thù hận Trần Văn Sửu. Ông vẫn dành cho Sửu sự cảm thông, thương xót. Có lúc lòng ông có gợn lên thoáng hận nào đó, ấy là khi ông mắng chửi một câu: "Mày thực là đồ khốn nạn lắm!" . Nghĩ cho cùng đó là cái phản ứng dễ có của một người cha bị mất con gái. Song, nó cũng chỉ là thoáng qua. Chi tiết ấy cho thấy Hồ Biểu Chánh hiểu lòng người chứ không chạy theo nhu cầu lý tưởng hóa một chiều để hoàn toàn đơn giản hóa tình cảm vốn phức tạp của con người. Tràn ngập lòng hương thị Tào vẫn là cảm thông. Ông đã sẵn sàng tha thứ, và đã tha thứ từ lúc nào rồi: "Thôi chuyện cũ bỏ đi! " Và trước sự đau đớn của con rể, ông đã không cầm lòng được: "Hương Thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì cảm động quá, không chịu nổi, nên ông cũng khóc". Tình huống đặt ra với hương thị Tào là có nên hay không nên đáp ứng nguyện vọng thiết tha của con rể muốn gặp được hai đứa con của mình trong chốc lát. Có lẽ không phải là xung đột giữa một bên là sở nguyện của con rể, một bên là hạnh phúc của hai cháu ngoại mà thực ra là xung đột giữa tình thương nhỏ và tình thương lớn. Sự giằng xé của nhùng tình cảm ấy khiến ông đau khổ. Đuổi Sửu đi không phải là ghét bỏ Sửu mà vì thương, vì sợ Sửu xuất đầu lộ diện sẽ nguy hiểm đến tính mệnh và làm hỏng việc đại sự trăm năm của con Sửu. Cuối cùng tình thương lớn đã thắng. Cái việc đuổi Sửu đi ngay có vẻ như tàn nhẫn nhưng không phải. Nói đúng hơn là tàn nhẫn bề ngoài, vì cực chẳng đã. Còn bên trong là tình cảm sâu sắc gắn với một tầm nhìn xa của một người cha. Ông giục Sửu đi sau khi đã nói rõ điều hơn lẽ thiệt cho con rể. Và đến đây xung đột của cảnh thứ nhất được giải tỏa. Sửu phải nén đau khổ để ra đi. Nhưng trong lòng anh đang dâng lên niềm hạnh phúc. Sửu ra đi không gặp con chính là chấp nhận hi sinh: Hi sinh niềm hạnh phúc nhỏ của mình gặp các con vì hạnh phúc lớn của con cái để chúng được yên ổn với những cuộc hôn nhân đang hứa hẹn. Cảnh thứ nhất khép lại với hành vi đầy cảm xúc của Sửu trước sự cảm thông và lòng độ lượng của nhạc phụ: "Trần Văn Sửu chắp tay xá cha vợ rồi đội nón lên và bươn bả bước ra vội".
Nếu dừng lại ở đó không thôi thì Cha con nghĩa nặng mới chỉ hiện ra một phía, ấy là cha vợ và con rể. Đây chưa phải là phần trọng tâm của tình phụ tử mà Cha con nghĩa nặng muốn nói đến. Sau khi Trần Văn Sửu vừa đi khỏi, thằng Tí ở trong nhà dò cửa chui ra. Điều này càng thấy rõ tính chất chuyên cảnh của sân khấu. Và cảnh thứ hai mở cửa ra.
Trước Trần Văn Sửu chỉ muốn sống để gặp con, giờ anh ta chỉ muốn chết để con bình yên. Nếu như ở cảnh trước chỉ nghiêng về đối thoại, thì đến đây "sân khấu” mở rộng hơn, hành động của nhân vật phong phú hơn. Thằng Tí cố đuổi theo để gặp cha; cha nó lại ngỡ là người làng đuổi bắt, nên con chạy càng gấp, cha chạy càng nhanh. Tình tiết cười ra nước mắt.
Có lẽ ai cũng thấy điều này; tình cảm ở các nhân vật ở đây thật phân minh. Bố vợ đã không vì mất con gái mà thù oán con rể, con không vì cha làm mẹ chết oan mà oán hận cha. Rồi đến khi, hận thù mẹ. Người đọc rất cảm động trước sự phân minh, ràng rẽ ấy. Hãy nghe Trần Vãn Sửu nói với con: "Con không nên phiền trách má con. Má con có quấy là quấy với cha, chứ không quấy với con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, sao con còn nhớ làm chi?".
Tuy nhiên, mâu thuẫn cơ bản ở cảnh thứ hai này chưa phải ở những điều đó. Thằng Tí muốn cha nó quay lại, muốn được sống cùng cha, muốn phụng dưỡng cha. Ấy là lòng hiếu nghĩa. Nhưng nếu làm được như thế thì người cha sẽ bị làng bắt, tính mệnh của cha sẽ nguy hiểm và hạnh phúc của nó chắc cũng bị đe dọa. Vậy mâu thuẫn ở đó là mâu thuẫn giữa tình thương cha và hạnh phúc của mình. Sâu xa hơn nữa là mâu thuẫn giữa lòng vị tha và lòng vị kỷ. Thằng Tí đã sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình để chăm sóc và che chở cha nó, về phía Trần Văn Sửu cũng sa vào mâu thuẫn. Nếu Sửu bỏ đi biệt thì coi như từ nay mất hẳn hai con, nhưng các con lại được hạnh phúc. Còn quay lại thì được sống trong tình phụ tử ít nhiều nhưng vô tình làm tan hạnh phúc của con. Và người cha cũng quyết chọn con đường hy sinh cái nhu cầu nhỏ của mình để làm tròn cái bổn phận lớn của người cha. Sự lựa chọn đầy tính vị tha của hai con dẫn đến mâu thuẫn giữa cha con: cha thì nhất quyết đi, con thì nhất quyết không rời cha. Nghe theo đứa con không phải nghĩ đến hạnh phúc của mình. Ngược lại nghe theo con chẳng qua là đành lòng nhượng bộ con, nghĩa là cũng vì con thôi!... cuối cũng tình thương con cả đã chiến thắng.
Kịch phản ánh cuộc đời thông qua các xung đột mâu thuẫn. Cha con nghĩa nặng không phải là tác phẩm kịch, nhưng là một tác phẩm văn xuôi giàu yếu tố kịch. Kịch tính ở đây là vẻ đẹp độc đáo của nguyên truyện này. Câu chuyện dựng lên cảnh ngộ thương tâm của con người trong cuộc đời. Người ta thấy đạo lí làm người là bất diệt. Dù con người có bị đẩy vào những hoàn cảnh nghiệt ngã đến đâu, con người vẫn cứ kiêu hãnh làm người. Với tư tưởng ấy có thể xem cha con nghĩa nặng là một khúc khải hoàn ca của đạo lí đã vang lên, đã vọng về từ đầu thế kỷ. Và có lẽ nó còn vang vọng mãi.