05/06/2017, 00:03

Phân tích đặc sắc nghệ thuật tuỳ bút Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà”

Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện ...

Nhận xét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh Đức viết “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”. Qua việc phân tích đặc sắc nghệ thuật tuỳ bút Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà”, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

Hơn mười năm đã trôi qua, kể từ khi Nguyễn Tuân vào cõi vĩnh hằng; có lẽ con người “suốt đời đi tìm cái Đẹp” ấy không phải bản khoăn, hôi tiếc điều gì nữa. Bởi những gì ông đã công hiến cho nền văn học Việt Nam hiện đại không ai thay thế được. Đọc tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” của ông, ta càng thấm thía lời nhận xét của Anh Đức: “Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút đều như có đóng một dấu triện riêng”.
 
Có thể nói Nguyễn Tuân là người viết tuỳ bút nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam hiện đại. Với các tập “Tuỳ bút I” (1941); “Tuỳ bút II” (1943), ông đã làm sống lại khái niệm tuỳ bút trong văn học, đồng thời “định nghĩa” lại thể tuỳ bút. Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) đã từng nêu lên khái niệm về thể loại này trong “Vũ Trung tuỳ bút”. Theo ông, tuỳ bút đề cập đến những vấn đề rất đa dạng, không theo một trình tự nào, từ chuyện thân thế, gia đình đến chuyện xã hội, thời cuộc, lịch sử ... Tuỳ theo hứng thú, sự quan tâm của người viết mà thể hiện các đề tài ấy. Trong văn học hiện đại, tuỳ bút là khái niệm được dùng để chỉ những tác phẩm viết một cách phóng khoáng, tự do, theo dòng suy nghĩ, liên tưởng của người viết. Tuỳ bút cũng là kí, là ghi chép, nhưng không chỉ ghi chép sự việc mà trong đó có cả suy nghĩ, cảm xúc người viết khi tiếp xúc với thực tế. Theo “định nghĩa” mới của Nguyễn Tuân, phần trình bày suy nghĩ, nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng của người viết chiếm một tỷ trọng lớn, do đó chất trữ tình thường khá đậm nét. “Người lái đò sông Đà” thể hiện đầy đủ những điểm đặc sắc nghệ thuật tuỳ bút của Nguyễn Tuân. Có thể nói thể tuỳ bút đã tạo đất cho nhà văn dụng võ, ngược lại, với Nguyễn Tuân, thể tuỳ bút cũng đã có một bước phát triển mới.

Trước hết phong cách nghệ thuật tuỳ bút của ông thể hiện những trang viết tài hoa và uyên bác. Tài hoa và uyên bác trong kể và tả. Ở Nguyễn Tuân, kể và tả đều kỹ càng, tỉ mỉ, có ngọn ngành, thông kim bác cổ. Mỗi liên tưởng, liên hệ trong tư duy, tư tưởng rất rộng, rất sâu. Cho nên những trang viết của ông đưa lại cho người đọc nhiều kiến thức văn hoá. Chính vì thế, đến với thiên tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”, ta như được chứng kiến một công trình khảo cứu công phu, một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mỉ về sông Đà và những gì sinh sống trên con sông đó. Tôi nhìn bìa sách văn 12, trên đó có một bức tranh mà tôi đoán là minh hoạ cho tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Nếu quả thực là như vậy thì thật thất vọng quá. Con sông Đà trên bức tranh chẳng khác nào một khe suối nhỏ. Sông Đà, như tôi biết qua sự miêu tả của Nguyễn Tuân, có một vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình, được thể hiện qua cái nhìn từ nhiều góc độ của tác giả. Đặc biệt là bằng vốn từ vựng phong phú và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của ông. Nói như nhà văn Anh Đức: “mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn bút như có đóng một dấu triện riêng”. Tại sao khi ta gọi Nguyễn Tuân là “một bậc thầy của ngôn từ, ta không hề thấy ngại miệng”?. Bởi lẽ đọc “Người lái đò sông Đà” của ông ta nhận thấy văn Nguyễn Tuân là thứ ngôn từ nóng rẫy sự sống. Sức nóng trong ngôn ngữ của ông phát ra từ mọi hướng. Nhà nghệ sĩ “độc đáo vô song” ấy đã sáng tạo ra hàng loạt từ ngữ mới cho từ điển tiếng Việt. Chỉ trong vài trang kí, mà có biết bao động từ trong đó. Tả tiếng thác nước, Nguyễn Tuân đem lại cho người đọc cả một hệ thống động từ được xếp cạnh nhau theo cấp tăng tiến: Lúc đầu là “tiếng nước réo gần mãi lại réo to mãi lên” rồi “nghe như là oán trách”; “van xin”, “khiêu khích”; “giọng gằn mà chế nhạo”. “Thế rồi nó rống lên”, “lồng lộn”, “gầm thét”. Ngôn ngữ sinh động lại được kết hợp một cách tài tình khiến ta như cảm nhận cái hồn thác đang gầm lên giận dữ. Hết thác rồi đến đá, đội quân đá đang mai phục, sẵn sàng dưới sự chỉ huy của thác. Chúng đang chờ “có chiếc thuyền nào xuất hiện”“nhổm cả dậy để vồ lấy”. Thật thú vị khi chứng kiến sự bày binh bố” trận của những hòn đá “nhăn nhúm méo mó” kia. “Đám tảng, đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”. Trận địa đá gồm “hàng tiền vệ, có hai hòn canh cửa đá trông như là sơ hở” để “dụ đối phương đi vào sâu nữa” rồi “đánh khuýp quật vu hồi lại”. Nếu chọc thủng được tuyến hai thì nhiệm vụ của những bong ke chìm và pháo đài đá nổi ở tuyến ba phải đánh tan cái thuyền lọt lưới đá tuyến trên. Hấp dẫn nhất phải kể đến cuộc chiến đấu một mất một còn giữa người lái đò và thác sông Đà.

Bằng cái nhìn chứa đựng đầy tính điện ảnh cũng như hiểu biết uyên bác của mình, Nguyễn Tuân đã cho người đọc xem một đoạn phim bằng ngôn từ có một không hai: “Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thành viện”“hòn đá bệ vệ oai phong lẫm liệt” trông “y như là đang hất hàm hỏi cái thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. “Một hòn khác” thì “thách thức cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào”. Trí tưởng tượng sinh động của tác giả khiến người đọc vô cùng ngõ ngàng và thú vị. Trận chiến đã bất đầu “Trùng vi thạch trận vòng thứ nhất”“mặt nước hò la vang dậy quanh mình”, “sóng nước như thế quân liều mạng” “có lúc chúng đội cả thuyền lên” ... Nào là “đòn độc hiểm nhất, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm” ...Trùng vi thạch trận thứ hai không kém phần ác liệt. Có nhiều “cửa tử” để hòng đánh lừa con thuyền. Dòng nước cuồn cuộn của sông Đà được Nguyễn Tuân ví như “hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông Đà”. Ta có thế thấy sự biến hoá khôn lường trong cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Đoạn trên, ông tả tiếng thác như tiếng “một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn” thì đến đoạn sau dòng thác hiện lên như “hùm beo”. Cuộc chiến ở cửa ải thứ hai với ưu thế nghiêng hẳn về người lái đò. Dường như Nguyễn Tuân ưa dùng những động từ sắc lạnh. Ông lái đò hiện hình như một dũng tướng hiên ngang xông pha trận mạc “nắm chắc lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, “bám chắc”, “phóng nhanh’’, “lái miết”... Niềm vui hân hoan của tác giả khi ông lái vượt qua được vòng chiến thứ hai như lan toả trong những câu văn tiếp theo: “Chỉ còn vẳng lại tiếng hò của sóng thác. Chúng vẫn không ngớt khiêu khích, mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng”. Tâm hồn của người đọc như bị cuốn theo lối kể và tả đầy hấp dẫn của người viết. Chi tiết “tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng” của “cái thằng đá tướng” khiến người đọc như cùng cảm nhận sự khoái chí của tác giả. Trùng vi thứ ba diễn ra nhanh hơn “Con thuyền vút qua cổng đá mở cánh khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Cuộc chiến kết thúc, “thế là hết thác”. Dòng sông đột ngột hiện lên thanh bình, hiền hoà với sự bắt đầu bằng một hình ảnh vừa chân thực, vừa lãng mạn: “Sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ”. Câu văn miêu tả rất sinh động những đám bọt trắng xoá của dòng thác rơi từ trên cao và khi chạm đến cái đích cuối cùng là dòng sông thì vỡ ra, tạo thành âm thanh “xèo xèo tan..”. Nó có thể tan trong trí nhớ người lái đò bởi “cuộc sống của họ ngày nào cũng chiến đấu với sóng nước sông Đà dữ dội”, ngày nào cũng biết đến cảm giác “xèo xèo tan” của sóng thác. Nhưng âm thanh ấy in sâu vào tâm trí người đọc. Dòng thác đổ qua miền nhớ và để lại những nét chạm khắc không thể nào quên. Sức nóng trong ngôn ngữ Nguyễn Tuân còn phát ra từ màu sắc con sông Đà mà ông miêu tả. Tất cả đều là gam màu nóng chói, và thể hiện một óc quan sát, liên tưởng, so sánh vô cùng tinh tế. Con sông Tây Bắc khi thì được miêu tả như “một cái mặt giếng mà thành giếng xây bằng nước sông xanh xe một áng thuỷ tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh như sắp vỡ tan”; khi thì “xanh ngọc bích” vào mùa xuân, “lừ lừ chín đỏ” vào mùa thu. Có lúc sông như “miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi”. Cái “dấu triện riêng” mà mỗi dòng, mỗi chữ, mỗi câu văn Nguyễn Tuân đều được in vào đấy, phải chăng chính là kho ngôn ngữ vô cùng phong phú và đặc sắc của ông? Bởi có ai nhìn thấy “cái mặt xanh lè, tiu nghỉu” của đá; cái màu “lừ lừ chín đỏ” của sông, nghe thấy âm thanh “xèo xèo tan” của bọt thác? Gọi Nguyễn Tuân là “bậc thầy ngôn ngữ” quả là không sai. Chỉ nói về con sông Đà mà ông đã sử dụng bao nhiêu từ đồng nghĩa. Khi thì gọi sông Đà là “con sông Tây Bắc hung bạo và trữ tình”, khi thì bảo “cái dây thừng ngoằn ngoèo”, lúc lại như “áng tóc trữ tình”... ông còn gọi sông Đà là “cố nhân”, là “cái miếng sáng loé lên một màu nắng tháng ba Đường thi”, rồi “một áng tóc trên mảng đầu Tây Bắc”, “một con cá bị chúa đất từng vùng đem cắt ra từng khúc nhỏ”... Chỉ riêng điều đó thôi cũng cho ta thấy vốn từ vựng của Nguyễn Tuân vô cùng phong phú. Nguyễn Tuân viết như lấy chữ từ trong túi ra, thổi vào mỗi chữ một linh hồn sống và tạo nên những trang viết tài hoa.
 
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến chủ nghĩa xê dịch. Con người thích “chơi ngông” ấy “đi không cần mục đích, không cần đến nơi, cốt là cứ được lăn cái vỏ mình mãi mãi trên mặt đất này” (Nguyễn Đăng Mạnh). Mặc dù thế, văn chương là tâm huyết thực sự của đời ông. Và điều làm nên linh hồn của những áng văn xê dịch ấy là tấm lòng gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước của ông. Tôi chưa đọc được nhiều những trang văn của Nguyễn Tuân, nhưng ấn tượng của tôi về ông gói trọn trong chữ “ngông” độc đáo, vô song ấy. Dù trước hay sau cách mạng thì vẫn là con người ấy. Đằng sau sự uyên bác về kiến thức, sự cầu kì, tỉ mỉ trong từng câu chữ, là một tấm lòng tha thiết yêu quê hương xứ sở. Không có tấm lòng ấy, không thể nhìn thấy con sông Đà như “một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai”. Không yêu quê hương, làm sao ông có được nhận xét: “người cố nhân ấy biết mình lắm bệnh, lắm chứng, chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy”. Ông đâu chỉ miêu tả sông Đà, với ông “áng tóc mun dài ngàn ngàn vạn vạn sải” ấy như một cố nhân. Từ lòng yêu nước tha thiết cùng với tài hoa độc đáo của mình, Nguyễn Tuân đã để lại cho đời những trang văn tuyệt bút.
 
Trở lại nhận xét của Anh Đức về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, người đọc tự hỏi thế nào là phong cách nghệ thuật? Đó hẳn phải là một cái nhìn mới mẻ, một sự khám phá độc đáo, có tính phát hiện đối với đời sống. Cái nhìn mới mẻ ấy được thể hiện bằng một bút pháp nghệ thuật đặc sắc mang dấu ấn riêng, vẻ đẹp riêng của mỗi nhà văn. Những nhà văn thực tài mới có phong cách. Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách sâu sắc và độc đáo. Sự độc đáo của phong cách Nguyễn Tuân thể hiện ở những tư tưởng mới lạ được nhìn nhận và khám phá từ những gì rất bình thường, giản dị, thậm chí ngay cả ở những gì người đời coi là “tầm thường”, thấp kém. Những tư tưởng mới mẻ ấy lại được thể hiện và diễn đạt bằng một kho tàng ngôn ngữ hết sức phong phú và linh hoạt với nhiều sáng tạo trong dùng từ, đặt câu. Cũng như Nguyễn Du đã làm giàu và làm sang cho ngôn ngữ dân tộc bằng truyện Kiều, Nguyễn Tuân cũng thế. Những trang văn của ông không chỉ thấm đượm linh hồn quê hương mà còn là sự thể hiện sự giàu có của tiếng nói dân tộc Việt. Có nhà nghiên cứu nhận xét rất đúng về ngôn ngữ Nguyễn Tuân, đó là “sự giàu có và giá trị tạo hình cao, như muốn ganh đua cùng tạo hoá”.
 
Nhà văn Măc xim Gorki đã từng nói “con người, tiếng ấy thật tuyệt diệu, nó vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao”. Sự uyên bác, tài hoa, đầy sáng tạo bất ngờ trong những trang văn của Nguyễn Tuân nồng ấm một tình yêu và lòng tự hào về con người. Từ hình tượng Huấn Cao “Vang bóng một thời” đến “Người lái đò trên sông Đà” có một sự chuyển biến trong tư tưởng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả hai nhân vật đều có điểm chung: họ đều là những người có phẩm chất nghệ sĩ, chiến sĩ, vẻ đẹp thăng hoa của con người. Họ đều là sản phẩm của sự kết hợp cái Tâm và cái Tài của người viết. Nhà nghệ sĩ lớn ấy đi săn tìm cái đẹp suốt cả cuộc đời để rồi mang lại cho ta “chất vàng mười” của nghệ thuật. Đọc Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, chúng ta thực sự bị cuốn hút vào dòng thác của cuồn cuộn của sông chữ, sông đời; thực sự như bị lạc vào “bờ sông hoang dại như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”. Từng câu, từng chữ mà ông đặt lên trang giấy là cả một quá trình sáng tạo công phu, cẩn trọng và thiêng liêng. Nguyễn Tuân thích sáng tạo, độc đáo cả trong đời thực lẫn trong văn chương. Ông thích Đốtxtôiépxki và dường như chính ông là một minh hoạ cho cái định nghĩa nổi tiếng của Đốt: “Tài nghệ vĩ đại nhất của nhà văn là ở chỗ biết xoá bỏ”. Phải chăng trong suốt cuộc đời lao động nghệ thuật cần cù, miệt mài, trau chuốt từng câu, từng chữ, Nguyễn Tuân đã biết tự “xoá bỏ” để tồn tại và trở thành một nghệ sĩ lớn.
 
Nguyễn Tuân đã ra đi vào ngày 28 tháng 7 năm 1987. Biết bao nhớ tiếc, ngẩn ngơ đã để lại trong lòng người đọc. “Không biết chừng nào lại có một nhà văn như thế, một nhà văn mà ta gọi là một bậc thầy của ngôn từ ta không thấy ngại miệng, một nhà văn độc đáo vô song mà mỗi dòng , mỗi chữ như có đóng một dấu triện riêng”. Đến bao giờ mới có một nhà văn như thế?

0