Phân tích bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ ngữ văn 10
Phan tich bai tho Thu hung cua Do Phu – Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn Phân tích bài thơ Thu Hứng Của Đỗ Phủ trong chương trình văn học lớp 10. Đỗ Phủ được coi là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông ...
Phan tich bai tho Thu hung cua Do Phu – Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn Phân tích bài thơ Thu Hứng Của Đỗ Phủ trong chương trình văn học lớp 10. Đỗ Phủ được coi là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không thể thực hiện được điều này. Cuộc đời ông, giống như cả đất nước, bị điêu đứng năm 755, và 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến ...
– Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn Phân tích bài thơ Thu Hứng Của Đỗ Phủ trong chương trình văn học lớp 10.
Đỗ Phủ được coi là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất Trung Quốc. Tham vọng lớn nhất của ông là có được một chức quan để giúp đất nước, nhưng ông đã không thể thực hiện được điều này. Cuộc đời ông, giống như cả đất nước, bị điêu đứng năm 755, và 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian hầu như không ngừng biến động. Nhưng sự nghiệp sáng tác của ông thì vô cùng phong phú, nổi bật lên đó là bài thơ Thu Hứng.
Đỗ Phủ sáng tác rất nhiều bài thơ trữ tình thể hiện tình cảm của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. Trong những bài thơ đó nổi bật và đặc sắc nhất có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu). Đây là bài thơ được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu.. Vùng đất Tứ Xuyên có núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc trong lòng Đỗ Phủ để có cảm xúc chủ đạo viết lên bài Thu hứng là một bức tranh mùa thu cô đơn tẻ nhật ảm đạm, đây cũng là bức tranh để tác giả thể hiện tâm trạng trĩu nặng u sầu của mình trong cảnh đất nước đang loạn li, tác giả lo cho đất nước đang lâm vào tình cảnh rối ren, loạn lạc; lỗi nhớ quê hương và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách. Hai câu thơ đầu đã thể hiện những hiu hút hiu quạnh của mùa thu :
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn non hiu hắt, khí thu hòa. Cảnh tượng vào mùa thu thật khiến cho tâm hồn con người xao xuyến mông lung có cái cảm giác trống trải trong tâm hồn con người, và những cảnh vật thiên nhiên xao sát khiến cho tâm hồn còn người sầu lại càng sầu hơn, Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm, trĩu nặng một nỗi buồn thương. Cảnh mùa thu những chiếc lá bay bay sào sạt trên rừng phong rộng mênh mang khiến cho con người có cảm giác trống trải. Hai câu thơ tiếp theo đó là ảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), cảnh thu dưới thấp. Sông ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. Vì thế nên mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Trong câu thơ dịch : Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn, thẳm đặc tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Quan sát thiên nhiên với tâm trạng buồn cô đơn vì vậy Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tả thực. cảnh sắc nhuốm màu bi thương và cũng có những nét bi tráng . Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Bốn câu thơ tiếp theo là cảm xúc của tác giả khi ở nơi đất khách quê người :
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
Cảnh vật thật buồn hiu quạnh khi lệ cứ tràn rơi trên nhưng tròm hoa cúc, hoa cúc là nhân tố gợi ra những nỗi nhớ, hình ảnh con thuyền cũng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: “Cô chu nhất hệ cố viên tâm’’. (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ).. Chiếc thuyền lẻ loi là một ẩn dụ đầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng. Hai câu thơ cuối nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ.
Khí thu lạnh lẽo khiến lòng người khô quạnh. hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu ”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng Chày đập vải). Tác giả thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thờ. Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ Phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chi còn ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ. Ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình đời.
Nỗi lo âu cho đất nước, nỗi buồn nhớ quê hương và nỗi ngậm ngùi, xót xa cho thân phận mình được Đỗ Phủ thể hiện đậm nét qua bài Thu Hứng và để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc.