Phân tích bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến- Văn 11
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Thu Điếu” của Nguyễn Khuyến Có thể nói trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài có thể kể ra đó là “Thu vịnh”, “Thu ẩm” và “Thu điếu”. Và ...
Đề bài: Em hãy phân tích bài thơ “Thu Điếu” của Nguyễn Khuyến
Có thể nói trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài có thể kể ra đó là “Thu vịnh”, “Thu ẩm” và “Thu điếu”. Và dường như bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài “Thu điếu”, nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Thi phẩm “Thu điếu” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Đó chính là những cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.
“Thu điếu” dường như đã được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Có thể thấy được những cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Dường như hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao “trong veo” toả hơi thu “lạnh lẽo”. Cả hình ảnh sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, và cả cái không khí thu lành lạnh lại trở nên “lạnh lẽo”. Và chú ý hơn trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ – “bé tẻo teo”. Hình ảnh cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, và có thể khẳng định đây cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo nhà thơ nổi tiếng Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm Bình Lục, Hà Nam có cơ man nào là ao, nhiều ao cho nên ao nhỏ, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà “bé tẻo teo”:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”.
Có thể nhận thấy với các từ ngữ: “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, và cả sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về.
Với hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài ba làm rõ thêm cái hồn của cảnh thú:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Chính với màu “biếc” của sóng hoà hợp với sắc “vàng” và chính của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, “lá vàng” với “sóng biếc”, tốc độ “vèo” của lá bay tương ứng với mức độ của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà cũng đã hết lời ca ngợi chữ “vèo” trong những ý thơ trong bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài “Cảm thu, tiễn thu”: “Vèo trông lá rụng đầy sân”.
Ta như đã thấy hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời “xanh ngắt” với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là “xanh ngắt”:
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao”.
(Thu vịnh)
“Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ”
(Thu ẩm)
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”.
(Thu điếu)
“Xanh ngắt” là một màu xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (mây xám), mà xanh ngắt một màu thăm thẳm. Xanh ngắt dường như cũng đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, nỏi bậ ttrên bức tranh thu đó chính là hình ảnh ông lão đong đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn như đã thật vắng lặng, vắng teo. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:
“Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”.
Có lẽ chính cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Và dường như là người câu cá như đang chìm trong một giấc mộng mùa thu. Tất cả, tất cả các cảnh vật từ mặt nước “ao thu lạnh lẽo” đến “chiếc thuyền câu bé tẻo teo”, từ “sóng biếc” đến “lá vàng”, từ “tầng mây lơ lửng” cho đến “ngõ trúc quanh co” dường như cũng đã hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh dường như có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mọi con người Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu đến vậy.
Cố lẽ cái ý vị của bài thơ “Thu điếu” là hai câu kết:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
“Tựa gối ôm cần” được xem là một tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của một nhà thơ đã thoát vòng danh lợi. Có lẽ chính cái âm thanh “cá đâu đớp động” nhất là từ “đâu” gợi liên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Và dường như gười câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, ông đã rấy yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, và ông không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh và đã từ quan. Có lẽ đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh sạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá là vậy đó nhưng dường như tâm hồn nhà thơ như đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khim “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Cho nên mà người đọc có thể nhận thấy rằng cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy, đó chính là một buồn cô đơn và trống vắng.
Dường như chính âm thanh tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Có lẽ chính cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên ở đây khi đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỉ. Ông cũng như đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc vàng của lá thu, ở màu “xanh ngắt” của bầu trời thu, còn ở ngay làn “sóng biếc” trên mặt ao thu “lạnh lẽo”…
Bài thơ đặc sắc “Câu cá mùa thu’’ được xem là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Có lẽ những cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần,như đã thật tinh tế gợi cảm. Dường như là âm thanh của tiếng lá rơi đưa “vèo” trong làn gió thu, tiếng cá “đớp động” chân bèo – đó là nét dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao koài niệm đẹp về quê hương đất nước.
Với một nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo vần “eo” đi vào bài thơ rất tự nhiên thoải mái, dường như cũng đã để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta: trong veo – bé tẻo teo – đưa vèo – vắng-chân bèo. Chẳng phải ngẫu nhiên thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết rằng “Cái thú vị của bài “Thu điếu” ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một vùng đậm nhạt của chiếc lá thu rơi…”.
Thơ chính là một sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến dường như cũng phải yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông được xem là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm”, chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương,đó chính là tình yêu thêm xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyên, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến thật đúng là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
Nguồn: Văn mẫu hay