Phân tích bài Thơ Duyên của Xuân Diệu
Hướng dẫn Nếu Thơ duyên là một bài thơ rất Xuân Diệu, thì xem ra nhưng lời bình mà tác giả Thi nhân Việt Nam dành cho thi phẩm này cũng hết sức Hoài Thanh. Cơ chừng chỉ bởi ấn tượng với mấy câu thơ được ngòi bút phê bình tài hoa tình tế kia nảy ra. nhiều người mải tìm đọc toàn ...
Hướng dẫn
Nếu Thơ duyên là một bài thơ rất Xuân Diệu, thì xem ra nhưng lời bình mà tác giả Thi nhân Việt Nam dành cho thi phẩm này cũng hết sức Hoài Thanh. Cơ chừng chỉ bởi ấn tượng với mấy câu thơ được ngòi bút phê bình tài hoa tình tế kia nảy ra. nhiều người mải tìm đọc toàn bài. Còn trước đó ít ai ngó ngàng đến cả thi phẩm. Đến khi dành được một chỗ trong sách giáo khoa, người ta mới thấy Thơ duyên được giới phê bình si mê hơn. Thơ duyên vậy là bén duyên với Hoài Thanh mà vẫn luôn mặn duyên với giới phê bình!
Như cái tên của nó, Thơ duyên có một bình diện nội dung dễ thấy là giãi bày mối giao cảm giữa thiên nhiên với thiên nhiên, con người với tạo vật và con người với con người như một cuộc giao duyên, một cuộc hoà thơ huyên diệu trên thế gian này. Cảm hứng giãi bày ấy đã cuốn theo nó mối quan tâm của phần đông những ngòi bút phê bình kia. Thế cùng dễ hiểu. Cảm hứng này đã khiến bài thơ hiện ra như một thể sống động, tràn ngập cảm xúc. ở đó những biến thái mơ hồ nhất của thiên nhiên, cùa con người đều được thể hiện bằng những nét bút tình tế đến huyền diệu, ở dó, quả là có thể thấy rõ "sự bồng bột của Xuân Diệu được phát biểu ra đầy đủ hơn cả là trong những rung động tinh vi". Nhưng chính vẻ đẹp phố ra ấy đã làm chìm khuất đi một bình diện nội dung khác làm nên cái duyên thẩm của Thơ duyên. Ấy là nội dung cắt nghĩa. Không phải lớp nội dung này hoàn toàn chưa được biết đến, nhưng nó đòi hỏi phải được quan tâm chu đáo hơn, tận tình hơn. Bởi phần lớn bí mật của bài thơ này hãy còn nằm đó. Bạn đừng vội nghĩ rằng thư phải là sự rung động hồn nhiên của tâm hồn, còn lí giải cắt nghĩa là sở đoản của thơ. Bởi điều hiển nhiên ấy mấy ai không biết. Tuyệt đối hoá nó thì vừa thu hẹp cả tiếng nói của thơ đă đành mà còn thu hẹp cả chính Xuân Diệu đấy. Cắt nghĩa mọi thứ, có thể nói là một ham muốn lớn của cả đời Xuân Diệu, mà nhất là tình yêu. Đâu có lúc thi sĩ thân: "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu", nhưng ta đừng vội tin rằng đó là thú nhận về sự bất lực. Đơn giản vì, ngay sau đó thi sĩ đã cắt nghĩa luôn. Và cả đời ông còn theo đuổi mãi việc cắt nghĩa tình yêu. Cho nên, cứ đọc kĩ mà xem cắt nghĩa đã đi vào hình thức tổ chức của mọi bài thơ Xuân Diệu hồn dưới mạch xúc cảm sôi nổi, bồng bột của thơ ông. bao giờ củng có một mạch luận lí, cắt nghĩa và thậm chí cả lí sự nữa. Vâng, điều tôi muốn nói, đó là Thơ duyên còn là một vỡ lẽ. Một khám phá về tơ duyên đã được nảy sinh như thế nào trên mật đất này
Ý tưởng cắt nghĩa của Thơ duyên có lẽ đã khởi nguồn từ một cội rễ sâu xa hơn: cảm quan nghệ thuật cùa Xuân Diệu. Trong thơ ông, thế giới dường như được quy chiếu về hai hình ảnh tổng quát, vừa tương sinh lại vừa tương khác, đó là hai phía của cùng một cảm quan. Mặt khác, thế giới hiện ra như một mảnh vườn tình ái, trong dó mọi vật đang rạo rực đắm say, đang giao duyên tình tự với nhau, đầy ánh sáng và hơi ấm. Mặt khác, thế giới cũng hiện ra như một sa mạc vô liệu, tất cà cứ như một cõi hoang vắng, lẻ loi, trống trải, lạnh!ẽo, âm u. Nếu mảnh vườn tình ải là thiên nhiên gợi tình, thi sa mạc vô liệu, là thiên nhiên gợi buồn. Một đàng đánh thức dậy trong con ngươi khát khao luyến ái, yêu dương, một đàng đánh thức dậy nỗi cô đơn cố hữu của con người! Dù gợi tình hay gợi buồn, nó đều dẫn lối cho con người đến với một cái đích duy nhất: tình yêu. Bởi gợi tình, nó giục giã con người đến tình yêu để hưởng niềm hạnh phúc kì diệu nhất của trần gian; còn gợi buồn, nó xui khiến con người đến tình yêu để thoát một nỗi bất hạnh. Thiên nhiên của Xuân Diệu luôn giăng mắc hai sợi tơ ấy và sẵn sàng se duyên cho những lứa đôi. Tơ duyên nảy sinh những cá thể chính là ý muốn cùa một thế giới như vậy.
Thì chính thế giới của Thơ duyên cũng là như thế. Có thể thấy Thơ duyên tự nó gồm hai phần rõ rệt. Mỗi phần đến bắt đầu bằng một bức tranh thiên nhiên rồi sau đó là sự chuyển biến tế nhị bên trong của nhân vật trữ tình. Đó cũng là trình tự của tứ thơ. Trung tâm của bài thơ là một đôi thiếu niên đi trong chiều mộng. Ban đầu họ là nhưng kẻ vô tâm. thế rồi thiên nhiên đã biến họ thành kẻ hữu tình. Thế giới xung quanh đồng lòng xe duyên cho họ.
Bắt đầu bằng một buổi chiều – một buổi chiều rất Xuân Diệu:
Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên,
Cây me riu rit cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá.
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền
Con đương nho nhỏ gió xiêu xiêu,
Là tả cành hoa nắng trở chiều.
Sáu câu thơ ấy chẳng phải là một mành vườn tình ái đó ư? Thiên nhiên thật khéo đặt bày. Vườn tình vừa có địa chi dành cho cuộc giao duyên cùa loài vật – cây me đương lúc thu về, vừa có địa chi dành cho con người – ấy là con đường để ngỏ. Câu thơ đầu. từng chữ một sáng nghĩa nhưng kết vào một chuỗi thì nghĩa như bị tôi. bị nhòe. Tất cà trở nên hư thực. Nghĩa câu thơ chỉ tô dần khi ta đọc câu tiếp: Cây me ríu rít cặp chim chuyền". Thì ra đây là duyên cớ. Vì đôi uyên ương đang tình tự mà câu chữ trở nên đắm đuôi. Nhánh cây, nơi đôi chim chọn không còn là một nhánh vô tình, vô tri. Nó biến thành điểm hẹn tình yêu, thành địa chỉ luyến ái, liên tưởng thơ bèn biến nó thành nhánh duyên. Cuộc tình tự ríu rít kia cũng đầu còn là những tiếng kêu vô nghĩa. Nó là tiếng lòng của đôi lứa. Nó thành cuộc tình tứ, cuộc hoà thơ. Và như thế chẳng đủ để chiểu thực thành chiều mộng sao? Chiểu thơ mộng hay chiều trong cỗi mộng thì cũng vậy thôi. Một ngữ pháp rất Xuân Diệu. Bên trên vòm me là bầu trời, xung quanh vòm me là mùa thu. Tất cả hầu như châu tuần, hội tụ để phụ hoạ, tô điểm cho tình yêu, xe duyên cho đôi lứa. Sự huyến nhiệm của tình yêu phải chăng ở đây: biến cả không gian, thời gian, thanh âm, sắc màu thành ảo mộng – "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá, Thu đến nơi nơi động tiếng huyền". Chiều mộng là ảo, hoa thơ là ào, nhánh duyên càng ảo. Mà ngay cả cái động thái đó trời xanh ngọc hay tiếng huyền kia cũng đều ảo cả thôi! Cái nhìn đắm đuối của thi sĩ vào buổi chiểu, phút chốc đã biến tất cả thành mộng ảo. Dẫu sao thi nhánh duyên kia, vòm me kia chưa phải điểm hẹn dành cho con người. Liền ngay đó, sẵn bày một cảnh khác – đây là địa chỉ cho con người:
Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả tả cành hoa nắng trở chiều.
Một con đường tình! Lơi là, tình tứ, mời mọc! Thắm gọi bước uyên ương. Con đường như dụi đầu vào gió, cành hoang lại là mình vào nắng. Lạc vào vương quốc của yêu đương, Thi sĩ (chàng thiếu niên kia) nhận ra một biến đổi kì diệu vừa diễn ra trong lòng và ý tưởng cắt nghĩa loé lên những vỡ lẽ đầu tiên:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Có một ranh giới mơ hồ và rõ rệt đánh dấu một đột biến của tâm hỗn trong hai chữ buổi ấy và lần đầu. Khi những rung động luyến ái dẫu đời thức dậy. Nó lập tức biến một cậu bé thành một chàng trai. cùng với nó, ta thấy một cuộc "đảo chính" trong lời xưng hô kiểu xung hồ cua cậu bé bị phê truất, thì kiều xưng hô đỉnh đạc của một tình nhân cũng bắt đầu tiến quyền: Ta – Bạn thành Anh – Em. Giọng cắt nghĩa nổi trội lên
Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đì lững đững chẳng theo gần.
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu.
Anh với em như một cặp vần.
Từ vô tâm đã hoá thành hữu ỷ. Trong mảnh vườn tình ái ấy làm sao còn có thể vô tâm. Diễm nhiên là em dửng dưng, chẳng bận lòng. Lững đững gồm cả tốc độ đi lững thững, cà thái độ đi hờ hững. Nào ai có để ý đến ai đâu! Nhưng chúng ta đang đi trong chiều mộng, đang đi giữa một bài thơ. (ở bài khác, Xuân Diệu cũng có viết: "Chúng tôi ngồi giữa một bài thơ, một bài thơ mênh mông như Vũ Trụ”) Trong bài thơ ấy – trong cuộc họa thơ của sự sống ấy, anh với em là một cặp vần. Cặp vần là một sáng tạo tinh tế mà láu lỉnh của Xuân Diệu. Suốt, từ văn học dân gian qua trung đại đến hiện đại, những cặp biểu tượng về đôi lứa được tạo ra không kể xiết. Nhưng cặp vần? Có lẽ đây là lần đầu tiên. Nếu đang ờ trong một cuộc hoà thơ, trong bài thơ thì còn gì hợp hơn, thi vị hơn khi vì anh với em như cặp vần. Vả lại, cặp vần nói thâm thuý cái không thể tách rời. Vần chỉ là vần, khi đi thành cặp đôi thôi! Trời đất đã hoàn thành việc xe duyên, tơ duyên đã buộc hai kẻ vô tâm vào một cập vần.
Ấy mới là lí do thứ nhất!
Chưa hết, sự cắt nghĩa của Xuân Diệu còn triệt để hơn. Phần sau thêm một lí do nữa để hợp thành sự hoàn hào của trời đất. Cũng thiên nhiên, nhưng ở đây cảnh vẫn hoàn toàn tương phản trên kia 1 mánh vườn tình ái thì đây là hoang mạc vô liêu. Trong thiên nhiên, gởi tình là một niềm rạo rực, đắm say. ở thiên nhiên, gợi buồn là một nỗi cô đơn, hiu quạnh. Gợi tình thi đôi chim ríu rít, gợi buồn thỉ chi còn một con cò trơ trọi, lẻ loi đang phân vân lúc hoàng hồn xuống:
Mày biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh.
Hoa Ịạnh chiều thưa sương xuống dần.
Nó gợi nhớ đến câu thơ: "Tôi là con nai bị chiều đánh lưới, chẳng biết đi đâu đường sâu bóng tối"! Con nai và con cò kia đếu là một cà thồi. Mọi gắng gỏi giang đôi cánh để xoá bớt sự trống trải đều vô vọng. Xung quanh vẫn là "Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần". Vì bài thơ được viết theo dòng thời gian tự nhiên: từ chiều đến chiều muộn tương ứng với các cảnh như thế, mà ta dễ quên đi sự phản lập có chủ ý giữa hai cảnh sắc là mảnh vườn tình ái và hoang mạc vô liêu này. Và củng nhờ được thể hiện trong một thời gian như thế mà tỉnh chất luận lí, cắt nghĩa đã được ngập sâu vào trong bài thơ, đến ngỡ như chăng có lí giải gì!
Tất cả giờ đây đều trống trải, lạnh lẽo, lẻ loi… buổn. Khổ thư có cái phấp phống. Câu thơ tả không gian mà có cái bóng gấp gáp của thời gian – "Mây biếc về đâu bay gấp gấp". Trống trải người ta cần nương tựa, lạnh lẽo người ta cần hơi ấm, lẻ loi người ta cần có đôi. Đó là trạng thái cô đơn cố hữu. Làm sao có thể vượt thoát được nỗi cô đơn, vượt thoát, được bất hạnh này? Tất cả nhu cầu ấy chỉ được đáp ứng khi con người đến với tình yêu! Chẳng phải đây là lí do thứ hai ư? – Tơ duyên cần phải mau hình thành bởi đó là con đường duy nhất để con người thoát nỗi cô đơn!
Đến đây, Xuân Diệu đã có kết luận chung cho toàn bộ sự cắt nghĩa của mỉnh, đã có thể khép lại toàn bài:
Ai hay tuy lặng bước thu êm,
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm.
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.
Khi nhu cầu cắt nghĩa nổi trội, thì lối diễn đạt luận lí lôgíc cũng giành lấy chủ quyền. Bốn câu thơ kia hoàn toàn có thể khồi phục thành một câu văn xuôi nhiều mệnh đề, thể hiện một kết luận chắc chắn: Ai hay tuy bước thu đi êm đềm bình lặng tuy chẳng có người trung gian mai mối chỉ cần trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy, thì lòng anh thôi đã gắn kết với lòng em rồi. Chữ thôi đã nói cái thế không thể cưỡng lại. không thể đảo ngược sự đã rồi. Còn chữ cưới lòng nói được một cuộc đính ước ngầm, một cuộc hồn nhân bi mật của hai tâm hồn. Nó diễn tả được cái trạng thái tế nhị "Tình trong như đã mặt ngoài còn e" cùa những cặp uyên ương đó thôi. Vậy đấy, tất cả cứ diễn ra êm đêm mà chứa đựng bao đổi thay ngấm ngầm và kỷ diệu!
Một sự cắt nghĩa rất Xuân Diệu! Vừa tế nhị vừa tinh quái!
Thu Trang