Văn học Việt Nam 1945 – 1975 đã gắn bó mật thiết với vận mệnh đất nước, sáng tạo nên nhiều hình tượng cao đẹp về con người Việt Nam trong chiến đấu, sản xuất và sinh hoạt. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là một trong số những tác phẩm viết về công cuộc đổi mới trong thời kì ấy. Đến với bài thơ, ta không chỉ được đắm mình trong những hình ảnh liên tưởng, tưởng tượng đẹp và tráng lệ mà còn cảm nhận được sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động cũng như niềm vui, niềm tự ...
Huy Cận tên khai sinh là Cù Huy Cận, là một trong những nhà thơ tiêu biểu của làng thơ hiện đại Việt Nam, đã nôi tiếng từ phong trào thơ mới với tập thơ “Lửa thiêng” (1940). Giữa năm 1958, trong không khí phấn khởi thi đua của toàn miền Bắc đang tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, Huy Cận có dịp đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời lúc đó và được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958) của tác giả. Với thể thơ bảy chữ, bút pháp lãng mạn đan xen với hiện thực, tác phẩm đã đánh dấu sự nảy nở trở lại của hồn thơ Huy Cận trước đất nước, cuộc sống và những con người lao động mới.
Bài thơ lấy thời điểm xuất phát khác với lệ thường – trong buổi hoàng hôn, khi những con thuyền đánh cá bắt đầu chuyến hành trình đêm :
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Hai câu thơ đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Cảnh biển vào đêm không hề nặng nề, tăm tối mà đẹp và tráng lệ trong một không gian rất thoáng, rất rộng. Trong cái mênh mông ấy nổi bật lên một vầng thái dương. Mặt trời đang lặn đã bớt đi cái chói chang, gay gắt nhưng vẫn đỏ rực như một “hòn lửa”, tỏa ánh sáng ấm áp ra cả một vùng biển. Phép so sánh “như hòn lửa” đã gợi tả ánh hoàng hôn lung linh, tráng lệ hắt ra từ một mặt trời đang trầm mình xuống biển khơi vô tận. Thực ra, vùng biển Hạ Long, Quảng Ninh – nơi ra đời bài thơ này – không thể thấy được cảnh mặt trời lặn mà chỉ có thể thấy điều đó ở vùng biển tây nam của đất nước. Như vậy cảm hứng của tác giả không chỉ gói gọn trong một vùng biển mà là cảm hứng chung và thống nhất về biển cả mênh mông trải dài theo Tổ quốc. Trong nguồn cảm hứng ấy, nhà thơ đã liên tưởng bóng tối đang buông dần từ trên cao xuống như cánh cửa ngăn cách giữa ngày và đêm, với then là những lượn sóng nhấp nhô như cài vào màn đêm. Những hình ảnh nhân hóa ấy đều theo hướng đưa thiên nhiên đất trời lại gần hơn với con người, tạo cảm giác vũ trụ bao la là một ngôi nhà khổng lồ. Ngôi nhà ấy có mặt trời là bếp lửa sưởi ấm, đêm là cửa và sóng là then – không khác gì ngôi nhà bình thường của con người. Và trong lúc ngôi nhà vũ trụ đang bước vào không gian yên tĩnh để nghỉ ngơi thì con người bắt đầu chuyến hành trình của mình :
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Nhà thơ trở lại với cách tả thực để cân bằng với những hình ảnh tưởng tượng trong hai câu thơ trên. Chữ “lại” ở đây đã gợi ra hai ý nghĩa. Nó cho biết “ra khơi” là công việc thường xuyên, quen thuộc tới mức thành thông lệ hằng đêm của đoàn thuyền. Bên cạnh đó, nó cũng gợi lên sự đối lập với hai câu thơ trên : giữa cảnh ngày dần tàn và đêm đang mở ra, giữa cái tĩnh của vũ trụ, của vạn vật đang chuẩn bị nghỉ ngơi, chìm vào giấc ngủ là cái động của những người ngư dân đang lên đường đi đánh cá đêm. Nghệ thuật tương phản ấy còn được thể hiện qua nhạc điệu đối nhau giữa những vần trắc “lửa” – “cửa” diễn tả nhịp đi của thời gian nhanh, mạnh như đóng lại, khép lại với những vần bằng “khơi” như mở ra, ngân nga, kéo dài. Huy Cận đã rất tài tình khi để người đọc cảm nhận được nỗi vất vả của việc đánh cá về đêm, để rồi cất lên một câu thơ đầy lạc quan :
Câu hát căng buồm căng gió khơi.
Nếu như câu thơ trước chỉ là một câu kể đơn thuần với chất hiện thực thì câu thơ sau lại tràn đầy chất nhạc và cảm hứng lãng mạn của thi sĩ. “Câu hát” ấy chính là khí thế ra khơi, sự hăng say lao động của những người ngư dân. Niềm vui vô hạn ấy như có một sức mạnh vật chất để hòa cùng với “gió khơi” để đẩy thuyền đi, như thể con người đang hòa cùng với thiên nhiên vậy. Chỉ một từ “căng” thôi là đủ để người đọc cảm nhận được khí thế của những người lao động lớn tới chừng nào, kì diệu đến mức nào. Trong ba hình ảnh “câu hát”, “buồm” và “gió khơi”, chỉ có cánh buồm là một sự vật cụ thể, còn gió khơi là một sức mạnh vô hình của thiên nhiên cũng như câu hát là một hình ảnh tượng trưng. Nhưng với sự liên tưởng, tưởng tượng của Huy Cận, những hình ảnh tưởng chừng rất quen thuộc ấy đã được gắn kết lại thành một chi tiết lãng mạn đầy sáng tạo mà cũng rất sống động. Ta thấy phảng phất trong đó chút gì rất giống với thơ Tế Hanh : “Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng / Rướn thân trắng bao la thâu góp gió” (Quê hương). Trong cánh buồm no gió, no tiếng hát của Huy Cận còn có sự lạc quan, phấn khởi, còn có niềm hy vọng về một buổi đánh bắt bội thu của những người ngư dân. Hay sâu xa hơn, đó là tiếng lòng của thi sĩ trước chặng khởi đầu của cuộc sống lao động mới. Những hình ảnh so sánh, nhân hóa và liên tưởng đầy sáng tạo của ông đã mở đầu bài thơ bằng bức tranh về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong niềm vui lao động hăng say, lạc quan.
Trong khí thế sôi nổi và tràn đầy nhiệt huyết ấy, nổi bật lên cảnh lao động của đoàn thuyền giữa đất trời bao la :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé đã được cái nhìn đầy cảm hứng lãng mạn và tin tưởng vào người lao động của thi sĩ phóng lên thành con thuyền khổng lồ, hòa vào sự rộng lớn, mênh mông của vũ trụ. Những cặp từ sóng đôi “lái gió” – “buồm trăng”, “mây cao” – “biển bằng” đã vẽ nên bức tranh lồng lộng về biển đêm, mà trong đó chủ thể chính là chiếc thuyền, là con người. Điệp từ “với” ở giữa từng cặp đối ứng ấy càng nối rộng khoảng cách giữa hai tính từ “cao” và “bằng”, làm không gian như càng bao la hơn, mênh mông hơn. Ở đó, mặt biển đêm trong suốt như in cả bầu trời, và con thuyền đi trên biển như lướt giữa không trung. Chính con người đã hợp vào với thiên nhiên bát ngát, lấy gió làm lái, lấy trăng làm buồm. Sức tưởng tượng kì diệu của Huy Cận đã làm đẹp thêm hình ảnh con thuyền cũng như nâng tầm con người sánh ngang với tự nhiên. Những động từ “lái”, “lướt” gợi lên một vận tốc rất nhanh, rất mạnh mẽ mà vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát như đang rong chơi. Tư thế ra khơi thoải mái đó chỉ có ở những con người vừa thoát ra khỏi vòng nô lệ, được làm chủ cuộc sống, làm chủ biển cả quê hương mình. Lại một lần nữa, ta nhớ tới những vần thơ của Tế Hanh : “Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã / Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.” Nhưng trong lời thơ của Huy Cận ta còn cảm nhận được một sự lâng lâng, sảng khoái lạ thường. Như thể ta đang đứng trên chính chiếc thuyền ấy với những người ngư dân, để lả lướt cùng gió, vui chơi cùng trăng, bồng bềnh với mênh, phiêu lãng với trời… Nhưng đánh cá đâu phải là một chuyến du ngoạn thảnh thơi vô tư như vậy. Nó đòi hỏi tất cả trí tuệ, sức lực và kinh nghiệm nghề nghiệp :
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Con người trong thơ Huy Cận không chỉ muốn hòa mình vào thiên nhiên, lao động cùng thiên nhiên mà còn muốn làm chủ thiên nhiên. Bên cạnh sự ung dung, lạc quan trong tâm hồn người ngư dân, người đọc vẫn cảm nhận được nỗi vất vả của họ. Sự vất vả, thậm chí có phần khô khan và rất đỗi bình thường ấy được miêu tả bằng bút pháp khoa trương trở nên kì vĩ, lớn lao như một cuộc chinh phục, một trận chiến thực sự. Với sự am hiểu sâu sắc về việc đánh bắt cá, Huy Cận đã biến việc thăm dò biển cả ngoài khơi xa để tìm ra bãi cá, bãi tôm thành “dò bụng biển”, đưa việc bủa lưới bắt cá thành “dàn đan thế trận lưới vây giăng” – những câu từ vừa đậm chất thực vừa mang hơi hướm lãng mạn. Trong cuộc chinh phục biển cả ấy, những người ngư dân là chiến sĩ, ngư cụ là vũ khí, còn mục tiêu không chỉ là một khoang thuyền đầy ắp cá tôm mà còn là cuộc sống lao động mới, là công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa đang hừng hực khí thế khắp miền Bắc lúc bấy giờ. Nhà thơ không chỉ hiểu mà còn có niềm cảm thông vô hạn với những người lao động và nỗi vất vả của họ. Nếu không thì làm sao ông có thể vẽ nên một bức tranh gây ấn tượng mạnh với người đọc với chất hiện thực và chất lãng mạn đan xen như thế được ? Để từ đó, cảm hứng về thiên nhiên đất trời hòa nhập với cảm hứng về cuộc sống lao động để khắc họa nổi bật hình ảnh con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc sống mới trong một không gian giàu chất trữ tình.
Cảm hứng ấy tuôn tràn xuống khổ thơ kế tiếp, để bức tranh lao động được tô điểm thêm bằng vẻ đẹp của biển cả và những loài cá :
Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Nhà thơ dẫn ta vào một thế giới huyền ảo của biển cả với bao sắc màu lung linh của các loài cá dưới ánh trăng. Dân gian có câu : “Chim thu nhụ đé” để nói đến bốn loài cá biển ngon nhất, vậy mà đã đến ba trong bốn loài cá ấy xuất hiện trong câu thơ của Huy Cận, đủ để thấy biển cả nước ta giàu có như thế nào. Nghệ thuật liệt kê kết hợp với điệp từ “cá” như khắc họa từng đường nét rõ ràng như một bức tranh sơn mài, giúp người đọc cảm nhận được sự phong phú của các loài cá cũng như vẻ đẹp của biển cả. Nơi đó, dường như tất cả ánh sáng, màu sắc đều là của cá và do cá tạo nên. Và trong những đường nét của bức tranh biển cả ấy, con cá song là một nét vẽ tài hoa. Cá song mình dài, thân dày, có nhiều vạch dọc thân hoặc các chấm tròn màu đen và hồng. Từ đó nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng”. Lúc đầu, Huy Cận dùng từ “lốm đốm”, nhưng sau này ông sửa lại vì không muốn câu thơ bị lệ thuộc vào ấn tượng thị giác. Thật vậy, từ láy “lấp lánh” đã gây được nhiều ấn tượng xúc cảm mạnh mẽ. Nó gợi lên hình ảnh những con cá song như những ngọn đuốc đang soi trong lòng biển khơi một ánh sáng long lanh đến kì diệu. Những ngọn đuốc ấy đang đưa đường dẫn lối cho những người ngư dân đánh bắt được nhiều cá, hay là chúng chính là ngọn lửa của nghệ thuật đã soi rọi cả tấm lòng thi sĩ để ông viết nên những vần thơ hay như thế ? Để từ đó, dựa trên câu thơ của Huy Cận, Chế Lan Viên đã viết : “Con cá song cầm đuốc dẫn thơ về” (Cành phong lan bể). Nhưng ấn tượng mà Huy Cận để lại trong lòng người đọc đâu chỉ dừng lại ở đó :
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Nhà thơ đã rất tinh trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Ông không dùng từ “vẫy” mà lại viết là “quẫy” để làm rõ nét từng hoạt động nhỏ của chú cá, khiến câu thơ thêm sinh động. Ông cũng không viết “lóe” mà lại dùng từ “chóe” để ánh sáng từ câu thơ tỏa ra thêm rạng rỡ và lung linh. Ánh trăng phản chiếu lấp loáng trên mặt biển, khiến từng cái quẫy của những chú cá cũng như làm ánh trăng ấy như vỡ tung ra, lóe sáng trong từng giọt nước. Chỉ là những hình ảnh từ sự quan sát bình thường nhưng trí tưởng tượng đã chấp cánh nối dài cho hiện thực trở nên kì ảo, làm giàu thêm cái đẹp vốn có của tự nhiên. Trong nét thực của muôn vàn loài cá trong câu thơ đầu tiên là vẻ đẹp lãng mạn mà nhà thơ đã khéo léo cảm nhận được. Chẳng vậy mà ông lại dùng một tiếng “em” thật thân thiết và gần gũi để gọi cá ! Vốn biết rằng công việc của những người ngư dân là đánh bắt cá, tước đoạt chúng từ thiên nhiên, nhưng sao trong thơ Huy Cận ta lại thấy giữa con người và thiên nhiên cùng những sinh vật của nó một mối giao cảm kì lạ, gần như là thân thương, trìu mến. Họ cảm nhận được vẻ đẹp trong từng hơi thở của biển đêm :
Đêm thở : sao lùa nước Hạ Long
Phải là một người có cảm nhận rất tinh tế mới cảm nhận được từng nhịp thở khẽ khàng của “đêm” như thế ! Phép nhân hóa khiến “đêm” không còn chỉ là cánh cửa như ở khổ thơ đầu nữa mà đã trở thành một sinh vật của đại dương, một phần linh hồn của bức tranh. Nhịp thở của nó là tiếng gió, tiếng sóng rì rào không bao giờ ngừng nghỉ của biển. Những vì sao trên bầu trời phản chiếu xuống mặt biển cũng hòa cùng theo nhịp điệu ấy, gợi nên một hình ảnh liên tưởng thật thơ mộng. Là gió – nhịp thở của đêm, là sóng – nhịp nhấp nhô cao thấp như đang thở của biển, hay là “sao” đang hòa vào gió và sóng để lùa nước Hạ Long ? Nhịp điệu hòa quyện đầy chất trữ tình ấy không chỉ “lùa nước Hạ Long” mà còn như lùa cả vẻ đẹp của bầu trời (“đêm”, “sao”) và lòng biển. Những động từ “thở”, “lùa” nghe thật nhẹ nhàng, trong đó nhịp điệu dịu êm của biển đối lập với nhịp nhanh và mạnh về người lao độn trong hai câu thơ cuối của khổ trước, tạo nên một hòa âm thật nên thơ. Huy Cận đã đưa cả vẻ đẹp của biển khơi vào lời thơ với bút pháp miêu tả vừa đầy màu sắc vừa như ngân nga một nhịp điệu trữ tình.
Trong nhịp điệu đầy chất lãng mạn ấy, nổi bật lên cảnh lao động của con người :
Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
“Câu hát” đã căng buồm đưa đoàn thuyền ra khơi, và bây giờ “bài ca” lại trở thành công cụ lao động để “gọi cá vào”. Nhà thơ không miêu tả trực tiếp việc đánh bắt cá mà chỉ nhấn mạnh vào “bài ca”, không chú ý vào sự vất vả của công việc mà tập trung vào vẻ đẹp, vào sự lãng mạn của nó. Trong đó, một lần nữa, con người với đại từ nhân xưng “ta” lại trở thành chủ thể của bức tranh. “Bài ca gọi cá vào” ấy không chỉ tượng trưng cho sự lạc quan, niềm hăng say lao động của người ngư dân mà nó còn biến lao động nặng nhọc thành niềm vui, giúp tìm ra được chất thơ mộng ngay trong cả một công việc tưởng chừng như bình thường nhất. Khi những người ngư dân thả lưới thường phải gõ vào mạn thuyền để xua cá vào lưới. Nhưng Huy Cận lại vận dụng thật xuất sắc những hình ảnh phản chiếu của bầu trời vào mặt biển để dệt nên những vần điệu thật độc đáo. Ông cảm nhận được rằng chính vầng trăng đang in bóng xuống mặt biển ấy đã hòa vào sóng nước biển khơi để vỗ vào thuyền, hòa nhịp cùng tiếng hát, vào nhịp gõ thuyền của những người ngư dân. Hợp âm ấy tạo thành một bản hòa ca của niềm vui lao động, một niềm vui say sưa và tràn đầy nhiệt huyết cùng niềm tự hào tới mức nó có thể khiến đoàn cá cũng bị cuốn theo nhịp điệu ngây ngất ấy mà đi vào lưới. Niềm tự hào ấy cũng chính là niềm vui của Tố Hữu trong “Bài ca xuân 61” : “Hỏi núi non đâu sắt đâu vàng / Hỏi biển khơi xa đâu luồng cá chạy”. Trong cái nhìn tươi tắn của Huy Cận, ta thấy lòng mình như cũng đang rộn ràng cất tiếng hòa cùng với sự lạc quan của nhà thơ, vào khí thế lao động hăng say của những người dân chài. Trong nguồn cảm xúc dâng trào ấy, nhà thơ không thể không cất lên lời ca ngợi và tri ân biển cả :
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Những người ngư dân đã lớn lên cùng biển, sống dựa vào biển, gắn bó cả cuộc đời với biển. Biển không chỉ đẹp bởi sự giàu có, phong phú tài nguyên mà còn bởi những lợi ích mà biển đem lại cho con người. Nhà thơ đã thấu hiểu và truyền tải điều đó vào những câu thơ đầy xúc cảm. Thay vì ví lòng mẹ với biển cả như ca dao, dân ca và biết bao nhà thơ, nhạc sĩ khác đã làm (“Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” hay “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”), ông đã so sánh biển như lòng mẹ. Biển khơi vốn rất khó lường với mưa bão, sóng gió dữ dội, ầm ĩ như lúc nào chực nhấn chìm con người. Thế nhưng với nhà thơ, con người sống nhờ biển như được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ. Giọng thơ tự nhiên, tha thiết, chân thành mang âm hưởng ca dao đã cất lên tiếng hát tri âm, tri kỉ, tri ân của người ngư dân với người mẹ thiên nhiên vĩ đại đã yêu thương, ủ ấp, nuôi lớn người dân chài. Tiếng hát ấy hòa vào với tiếng hát chan chứa tình yêu đời ở hai câu thơ trên để từ đó cho người đọc thấu hiểu được vẻ đẹp từ trong tâm hồn của những con người gắn bó với biển sống lạc quan, có nghĩa có tình. Tiếng hát ấy không mang đến cho thơ Huy Cận một sức truyền cảm mãnh liệt mà còn như truyền lại biết bao thế hệ một bài ca ân tình hòa chung vào bài ca lao động.
Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” thật sự đã đánh dấu một sự đổi mới lớn trong thơ Huy Cận. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông được khơi nguồn cảm hứng chủ yếu từ vũ trụ, một vũ trụ mênh mông, rộng lớn mà trong đó con người là một thực thể nhỏ bé, cô đơn : “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp / Con thuyền xuôi mái nước song song / Thuyền về nước lại sầu trăm ngả / Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Cũng là trời, là nước, là thuyền nhưng vắng lặng và đậm chất buồn sầu thương cảm. Với “Đoàn thuyền đánh cá”, vũ trụ vẫn bao la nhưng lại thân thiết và gần gũi hơn với con người, và con người không còn lẻ loi, lọt thỏm giữa đất trời nữa mà đã trở thành người chủ của biển khơi, là bạn của trăng sao và vẫy vùng cùng mây gió. Cảm hứng lãng mạn hòa quyện với cảm hứng vũ trụ và con người ấy đã tạo nên nhiều liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ và đẹp. Xuân Diệu cũng đã rất tinh khi phát hiện và nhận xét “bài thơ lặp lại năm lần chữ “hát” thực chất là một bài ca sảng khoái, phối hợp nhạc điệu với những động tác dồn dập”. Sự kết hợp giữa hình ảnh và âm thanh ấy đã tạo nên một không khí rạo rực tươi vui tràn ngập bài thơ.
Nhà thơ Tố Hữu từng viết rằng : “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim ta cuộc sống đã thật đầy.” Những hình ảnh đẹp và hùng vĩ trong bài thơ không chỉ vẽ nên một bức tranh, mà chính chúng đã mang trong mình hơi thở của vũ trụ bao la, của cuộc sống lao động miền Bắc thời kì ấy. Chúng vang xa. Bài thơ cũng chính là bài ca lao động rộn ràng, tươi vui và tràn đầy sức sống được hát lên từ cảm hứng lãng mạn cách mạng của tác giả, mở ra một con đường mới cho một hồn thơ mới nơi Huy Cận.