Phân tích bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên – Văn mẫu lớp 10
Phân tích bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên – Văn mẫu lớp 10 4.8 (96.01%) 381 votes Phân tích bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT chuyên Lê Quý ...
Phân tích bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên – Văn mẫu lớp 10 4.8 (96.01%) 381 votes Phân tích bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Hưng Yên Đại Việt sử kí toàn thư của tác giả Ngô Sĩ Liên là ...
Phân tích bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên – Bài làm 1 của một bạn học sinh giỏi Văn trường THPT chuyên Lê Quý Đôn Hưng Yên
Đại Việt sử kí toàn thư của tác giả Ngô Sĩ Liên là tập biên niên sử nhưng mang đậm chất văn học (theo tinh thần “vãn sử bất phân” của thời trung đại). Mỗi nhân vật, sự kiện lịch sử được để cập đến thường kèm theo những câu chuyện sinh động, để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Chân dung các nhân vật lịch sử thường được tác giả khắc hoạ khá sắc nét. Đoạn trích Hưng Đạo Dại Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những ví dụ tiêu biểu cho cách viết nói trên.
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn là một trong những vị anh hùng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam. ông giữ vai trò trụ cột của nhà Trần và là vị tướng có đóng góp to lớn trong ba lần đánh thắng quân xâm lược Mông – Nguyên. Với tẩm vóc lịch sử quan trọng và những phẩm chất tốt đẹp của một vị tướng tài, sau khi mất, ông đã được nhân dân thần thánh hoá và được lập đền thở trên khắp nước Nam.
Qua bài viết, tác giả Ngô Sĩ Liên đã xây dựng thành công một hình tượng đẹp đẽ vế người anh hùng văn vỗ song toàn. Những câu chuyện phản ánh cách ứng xử của Trần Hưng Đạo đối với nhà vua, với các tướng lĩnh, với người thân và những mẩu chuyện nhỏ về đời riêng đã thể hiện tính cách và phẩm chất quý báu của ông.
Nhân vật Trần Quốc Tuấn được tác giả miêu tả trong nhiều mối quan hệ và trong những tình huống thử thách, qua đó làm nổi bật phẩm chất của ông ở nhiều phương diện. Nhà viết sử đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật lịch sử sống động bằng những chi tiết chọn lọc đặc sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Cách kể chuyện về một nhân vật lịch sử trong Đại Việt sử kí toàn thư không đơn điệu theo trình tự thời gian. Chúng ta có thể thấy được mạch kể của bài viết như sau:
Mở đầu tác giả nêu lên sự kiện khác thường để tạo ra một mốc thời gian đáng chú ý: Tháng 6, ngày 24, sao sa. Với quan niệm “thiên nhân tương dữ" tức là giữa trời và người có quan hệ chặt chẽ với nhau thì sao sa là điểm xấu, dự báo một nhân vật có vai trò trọng yếu đối với quốc gia (vua, tướng quốc, anh hùng có công lớn với dân tộc) sắp qua đời. Điềm báo này ứng vào việc Hưng Dạo Dại Vương ốm.
Hưng Dạo Dại Vương ốm, vua ngự tới thăm và ông đả dặn dỏ vua những điều tâm huyết. Vậy, Hưng Dạo Dại vương là ai? Đó là Trần Quốc Tuấn với những nét riêng về hoàn cảnh xuất thản, về tướng mạo và những sự kiện đáng chú ý trong đời. Sau khi Trần Quốc Tuấn mất, ông được vua phong tặng rất trọng hậu vì có-nhiều công lao to lớn đối với đất nước và có phẩm chất, đức độ đáng kính phục.
Cách kể chuyện mạch lạc, khúc chiết của tác giả vừa giúp người đọc hình dung được nhân vật là ai, có những đặc điểm gì đáng đưa vào lịch sử, vừa giữ được mạch chuyện với những chi tiết sinh động, hấp dẫn, làm rõ nét chân dung nhân vật.
Phẩm chất nổi bật nhất của Trần Quốc Tuấn là lòng trung quân ải quốc. Lỏng trung quân của ông thể hiện ở tinh thần yêu nước sâu sắc và ý thức trách nhiệm cao đối với sơn hà xã tắc. Khi được nhà vua hỏi về việc chống giặc: Nếu có điều chẳng may, mà giặc phương Bắc sang xâm lược thì kế sách như thố nào ? thì Hưng Đạo Đại Vương đã hiến những kế sách đủng đắn và sáng suốt:
Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế " thanh dã ”, đại quân ra Khẳm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Dời Dinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất phương Nam môi mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lí mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lí Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đốn tận Mai Lĩnh là vì có thê. Vừa rổi Toa Đô, ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi đổng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Dại khải, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản (binh) chế trường (trận) là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cở vậy, tuỳ thời tạo thố, có được đội quân, một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy.
Sau khi đưa ra những bài học trị nước, Trẩn Quốc Tuấn đã khẳng định rằng trị nước là một công việc phức tạp, khó khăn, sự thành bại phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Tuỳ thuộc từng hoàn cảnh cụ thể mà đấng quân vương có kế sách phù hợp. Để chống giặc, có thể dùng kế thanh dã (vườn không nhà trống), biết dùng người tài giỏi và đoàn kết toàn dân, để lòng dân không lìa cũng là bài học quý giá. Kế sách trị nước còn là vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức để đánh đuổi ngoại xâm. Kế sách phù hợp ắt sẽ thành công. Câu trả lời của Hưng Đạo Đại Vương chứa đựng những kế sách trị nước quý giá, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của một thiên tài. Trong đó, ông đặc biệt nhấn mạnh đến tinh thần đoàn kết trên dưới một lòng và tư tưởng thân dân. Hạt nhân của kế sách trị nước chính là khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc.
Qua lời lẽ Hưng Đạo Đại Vương trinh bày với vua vế thời thế, về mối tương quan giữa ta và địch, chiến lược của địch, đối sách của ta, đặc biệt là coi trọng đến sức mạnh đoàn kết toàn dân, chúng ta thấy rõ ông là nhà quân sư có tài năng kiệt xuất.
Vậy Hưng Đạo Đại Vương là ai? Tác giả lần lượt nêu vài nét chính trong tiểu sử và kể những cảu chuyện nhỏ về cuộc đời ông:
Quốc Tuấn – con An Sinh Vương, lúc mới sinh ra, có một thầy tướng xem cho và bảo: “Người này ngày sau có thể giúp nước cứu đời". Đến khi lớn lên, dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc rộng các sách, có tài văn võ.
Lòng trung quân của Trần Quốc Tuấn dược đặt trong hoàn cảnh có nhiều thù thách: Mối hiểm khích giữa thân phụ của ông là An Sinh Vương Trấn Liễu với vua Trần. Thái Tông rất khó hoà giải. Trước khi qua đời, người cha trăng trối rằng: Con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mất đưặc. Trần Quốc Tuấn ghi để điểu đó trong lòng, nhưng không cho là phải.
Bị đặt vào tinh thê' mâu thuẫn gay gắt giữa hiếu và trung, nhưng Trần Quốc Tuấn đã dặt chữ trung lên trên chữ hiếu, nợ nước lồn trên tinh nhà. Hay nói khác đi, ông đã không thực hiện đạo hiếu một cách cứng nhắc. Trung cũng như hiếu ở Trán Quốc Tuấn đểu được chi phối bởi nghĩa lớn là trách nhiệm đối với đất nước.
Vì thiết tha với vận mệnh đất nước nên Hưng Đạo Đại Vương luôn đặt lợi ích của dân tộc lẽn trên quyển lợi của bản thân và gia đình. Lúc đã nắm quyền hành trong tay, Trán Quốc Tuấn đem lời cha dặn ngày nào ra hỏi hai gia nô là Dã Tượng Yết Kiêu thì họ can ông: Làm kế ấy tuy phú quý một thời mà để lại tiếng xấu ngàn năm. Nay đại vương há chẳng đủ phú và quý hay sao? Chúng tôi thổ xin chốt già làm gia nỗ, chứ không muốn làm quan mà không có trung hiếu…
Thái độ của Yết Kiêu, Dã Tượng khiến Quốc Tuấn cảm phục đến khóc, khen ngợi hai người. Lần khác, Quốc Tuấn vờ hỏi con trai là Hưng Vũ Vương: "Người xưa có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, con nghĩ thế nào?". Hưng Vũ Vương trả lời: “Dẫu khác họ cũng còn không nên, huống chi là cùng một họ. Quốc Tuấn ngẫm cho là phải. Lại một hôm Quốc Tuấn đem chuyện ấy hỏi người con trai thú là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng. Quốc Tảng tiến lên thưa: “Tống Thải Tổ vốn là một ông lão làm ruộng, đã thừa cơ dấy vặn nên có được thiên hạ". Quốc Tuấn rút gươm kể tội: “Tên loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra". Đinh giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin vội chạy tó khóc lóc xin chịu tội thay, Quốc Tuấn mới tha. Đến đây, ông dặn Hưng Vũ Vương: "Sau khi ta chết, đậy nắp quan tài rồi mồi cho Quốc Tảng vào viếng".
Sau khi mất, Trần Quốc Tuấn được vua phong tặng rất trọng hậu: Thái su Thượng phụ Thượng quốc công Nhân vũ Hưng Đạo Dại Vương. Nhà viết sử lí giải tại sao mà ông lại được phong tặng rất hậu như vậy. Thông thường, các nhản vật lịch sử sau khi chết mới được khẳng định tài nặng và nhân cách các quý qua hàng loạt chi tiết, sự việc đã được chọn lọc. Cách làm đó là theo tinh thần "cái quan định luận” có nghĩa là đóng nắp quan tài rồi mới có thể khẳng định đúng đắn về giá trị của nhân vật đó.
Ở đoạn này, tác giả nhận xét rằng đi đôi với lòng trung nghĩa và tài cầm quản dẹp giặc, Trần Quốc Tuấn còn có đức độ lớn lao. ống khiêm tốn, kính cẩn giữ tiết của bề tôi dù được vua trọng đãi rất mực, luôn coi là bậc thượng phụ (lả thầy, là cha). Lúc ông còn sống, đích thân vua Thánh Tông đã soạn văn bia ở sinh từ của Quốc Tuấn và cho phép ông được quyền phong tước cho người khác… Nhưng óng chưa bao giờ phong tước cho một người nào.
Ông cẩn thận phòng xa trong việc hậu sự: Khi sắp mất, ông dặn con ràng “ Ta chết thì phải hoả táng, lấy vật tròn đựng xương, bỉ mật chôn trong vườn An Lạc, rói san đất và trồng cây .như cũ, để người đời không biết chỗ nào, lạ phải làm sao cho mau mục.
Ông tận tinh với tướng sĩ dưới quyền nên bỏ công soạn sách để dạy bảo khích lệ họ: Quốc Tuấn lại từng soạn sách để khích lệ tướng sĩ dưới quyền dẫn chuyện Kỉ Tín chết thay để cứu thoát Hân Cao, Do Vu giơ lưng chịu giáo để cứu Sở Tử. Thế là dạy đạo trung đó.
Ông lại khéo tiến cử người tài giỏi cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu là gia thần của ông, có dự công dẹp ở Mã Nhi, Toa Đô. Bọn Phạm Ngũ Lão, Trần Thì Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dù, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực vốn là môn khách của ông, đều nổi tiếng thời đó về văn chương và chính sự. bởi vì ông có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa vậy.
Xem như khi Thánh Tông vờ bảo Quốc Tuấn rằng: "Thế giặc như vậy, ta phải hàng thôi", Quốc Tuấn trả lời: "Bệ hạ chém đẩu tôi trước rồi hãy hàng' Vì thế, đời Trùng Hưng lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc. chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên.
Sau khi mất rồi, các châu huyện ở Lạng Giang hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cấu đảo ông. Đến nay, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lể ở đền đình, hễ tráp đựng kiếm có tiếng kêu thì thế nào cũng thắng lớn.
Trong tín ngưỡng của dân gian, sau khi mất, Hưng Đạo Đại vương vẫn thường linh hiển để phò trợ dân chúng chống lại tai nạn, dịch bệnh và giặc ngoại xâm. ông đã thực sự trở thành một vị phúc thần của dân chúng. Có thể nói Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là mẫu mực của một vị tướng :ai đức vẹn toàn, không những được nhân dân ngưỡng mộ mà cả quản giặc cũng vô cùng kính phục.
Qua đoạn trích, người đọc yêu mến, tự hào về vị anh hùng dân tộc Trẩn Quốc Tuấn và không quên những câu chuyện đầy ấn tượng về ông. Đó là mục đích và cũng là thành công của nhà viết sử Ngô Sĩ Liên. Ngày nay, ông đã được tôn vinh là một trong những tướng lĩnh kiệt xuất của thế giới, là Danh nhân văn hoá thế giới. Dân tộc Việt Nam rất tự hào về vị anh hùng kiệt xuất Trần Quốc Tuấn.
Phân tích bài Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trong Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên – Bài làm 2
1. Kết cấu của đoạn trích
Có thể chia đoạn trích thành hai phần.
Phần 1: Từ đầu đến “ mới cho Quốc Tảng vào viếng”.
Phần 2: Tiếp theo cho đến hết.
Phần 1 bắt đầu bằng điềm gở là “sao sa” trùng với việc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ốm và nhà vua đích thân tới nhà riêng thăm. Nhân chuyện này, tác giả kể lại đạo trung quân, và lòng tận tụy vì nước vì dân của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn lí giải vì sao ông lại được các vua Trần tôn trọng hỏi ý kiến về việc quốc gia đại sử như thế.
Phần 2 bắt đầu bằng việc Trần Quốc Tuấn mất. Kể tiếp các công lao của bài ông lúc sinh thời để giải thích vì sao khi mất đi, ông được ban tặng danh hiệu Thượng phụ. Nhấn mạnh việc ông không lạm dụng quyền lực được vua ban cho và việc ông chú ý giáo dục đạo trung cho tướng sĩ.
Như vậy, một điểm cần chú ý là đối với các nhân vật lịch sử, người chép sử thường đưa ra một cái nhìn tổng kết đánh giá khi nhân vật đó qua đời hay sắp qua đời. Công thức phổ biến là bắt đầu bằng sự việc nhân vật đó đau ốm, qua đánh giá về nhân vật đó, Đây là một biểu hiện của quan niệm cái quan sự định đóng nắp quan tài thì sự nghiệp mới phán định được) hay cái quan luận định đóng nắp quan tài thì mới luận định sự nghiệp): sự nghiệp hay dở thế nào khi chết mới có thể đánh giá được.
2. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với tư cách một nhân vật lịch sử
Tác giả ca ngợi những phẩm chất sau của Trần Quốc Tuấn:
– Là một nhà chính trị có tầm tư tưởng chiến lược: Đời Trần, hiểm họa xâm lược của nhà Nguyên là mối đe dọa thường xuyên đối với Đại Việt. Trần Quốc Tuấn thường được hỏi ý kiến về kế sách giữ nước ( tức là chiến lược giữ nước).
Trong đoạn trích, ông nêu lên chiến lược giữ nước “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Khoan thư là chính sách đối với dân khoan hòa, rộng rãi để nhân dân có cuộc sống dễ chịu. Nhờ đó, người lãnh đạo được nhân dân ủng hộ, đạt được sự đoàn kết nhất trí của toàn xã hội. Phan tích bài học lịch sử cho thấy chiến lược đó đã được các triều đại vận dụng thành công như thế nào. Đời Đinh, Lê “Trên dưới một dạ, lòng dân không lìa” mà phá được quân Tống. Ngay trong đời Trần, “vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước nhà góp sức”. “Khoan thư sức dân” thực chất là chính sắc thân dân, lấy dân làm gốc mà các nhà nho thời Lí – Trần đề cao.
– Một con người trung hiếu vẹn toàn. Mặc dù trước khi mất, cha để lại lời trối trăng: “con mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được”, .Trần Quốc Tuấn “ghi để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải”. Trong hoàn cảnh đất nước cần có sự ổn định và sức mạnh để chống lại các cuộc xâm lăng của quân Nguyên, đạo trung hiếu thực chất bảo đảm sực đoàn kết nội bộ. Là một người thuộc hoàng tộc nhà Trần, cha lại có mói hiềm khích riêng với Trần Thái Tông nên Trần Quốc Tuấn ý thức sâu sắc về sự đoàn kết nội bộ. Là một người thuộc hoàng tộc nhà Trần, cha lại có mối hiềm khích riêng với Trần Thái Tông nên Trần Quốc Tuấn ý thức sâu sắc về sự đoàn kết nội bộ như là một cội nguồn sức mạnh. Một phần quan trọng của đoạn trích kể về ý thức đoàn kết một lòng không chỉ trong hoàng tộc mà nói chung tướng sĩ trên dưới. Bản thân ông là người mẫu mực về đạo trung, đồng thời là một trí thức uyên bác; ông cũng soạn nhiều tài liệu về binh pháp như Binh gia diệu lí yếu lược và tài liệu giáo dục (Hịch tướng sĩ) khích lệ tướng sĩ dưới quyền theo đạo trung. Bởi thế, dưới trướng ông, có nhiều môn khách về văn chương và chính sự.
Do những công lao của ông đối với đất nước, Trần Quốc Tuấn được nhà Trần đánh giá cao, được lập sinh từ (Đền thờ sống). Trần Thánh Tông soạn bài văn bia ở sinh từ ví ông với Thượng phụ, tức lã Vọng. Nhân dân tưởng nhớ ông theo cách riêng của mình: “hễ có tai nạn, dịch bệnh, nhiều người cầu đảo ông”, mỗi khi đất nước có giặc vào cướp, đến lễ ở đền ông, hễ tráp đựng kiếm cớ tiếng kêu thì thế cũng thắng lớn”.
3. Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn với tư cách một nhân vật văn học
Là một nhân vật văn học, Trần Quốc Tuấn trong đoạn trích đã được xây dựng theo bút pháp miêu tả nhân vật trong văn học tự sự. Nhờ đó, hình tượng nhân vật có tính tạo hình cao, sinh động. Nhân vật có đời sống nội tâm.
– Lòng trung quân, ý thức đoàn kết trên dưới một lòng của ông được thể hiện bằng những sự kiện có chọn lọc, có tính điển hình. Người xưa đã từng ý thức được sự khó khăn của việc khắc họa nội tâm nhân vật. Theo Đại Việt sử kí toàn thư, năm 1324, vua Trần Minh Tông ban tặng cho Trần Bang Cẩn một bức tranh và một bài thơ tứ tuyệt trong đó có hai câu:
Phong lưu nhất đoạn hồn miêu tận,
Tâm lí nan miêu cảnh cảnh đan.
(Mọi nét phong lưu có thể vẽ rõ hết,
Nhưng không thể vẽ rõ được tấm lòng trung).
Vì thế, cần chú ý đến các biện pháp khắc họa tâm lí nhân vật ở đoạn trích.
– Phần 1, kể khi “Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn ốm. vua ngự tới nhà thăm “.Trần Quốc Tuấn có suy nghĩ riêng về lời cha dặn lúc lâm chung, ông “để điều đó trong lòng, nhưng không cho là phải”.
Khi còn nắm binh quyền trong tay, ông “đem lời cha dặn” nói chuyện với hai gia no, hai người có lời can ngăn khảng khái, ông “cảm phục đến khóc khen ngợi hai người”. Chú ý: gia nô tức là những người nô tì, có địa vị rất thấp trong xã hội nhưng ông đã hỏi ý kiến họ và cảm phục họ. Chi tiết này khó kiểm tra: có thể có thực mà có thể hư cấu. Điều quan trọng là hai người gia nô đã phản đối một việc làm lẽ ra có lợi cho họ (họ là người thân cận tất nhiên sẽ được hưởng phú quý khi ông làm vua) và phản ứng của ông là khóc vì cảm phục. Nhà viết sử thông qua miêu tả “ phản ứng” của nhân vật đối với lời nói của người khác để bộ lộ nội tâm nhân vật.
Tiếp tục quan sát “phản ứng” của nhân vật, tác giả kể việc ông hỏi chuyện hai người con trai. Người con (Hưng Vũ Vương) khuyên không nên cướp ngôi, ông “ngầm cho là phải”. đối với Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng, khuyên nên giành ngôi, ông phản ứng quyết liệt không chỉ bằng ý nghĩa mà bằng cả hành động và lời nói: ông rút gươm định giết Quốc Tảng. Người con trai cả khóc lóc van xin cho em, ông mới tha nhưng dặn “sau khi ta chết, đậy nắp quan tài đã rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”. Đậy nắp quan tài tức là ông không muốn nhìn mặt đứa con từng khuyên ông điều bất trung. Đây là tình huống giàu kịch tính khắc họa chân dung nhân vật khá sinh động.
– Phần 2, bằng biện pháp liệt kê nhiều sự kiện khác nhau, từ lời nói, việc làm, kể cả việc trước sách vở, tác giả đã giúp người đọc hình dung diện mạo tinh thần, trí tuệ, nhân cách đạo đức cao đẹp của Trần Quốc Tuấn. Là người có nhiều quyền lực không lạm quyền lực nhưng không lạm quyền, là người tôi trung, ông chú ý giáo dục lòng trung cho tướng sĩ dưới quyền. Là người có tài nhưng cũng rất rộng lượng ông đã tiến cử nhiều người tài năng cho đất nước. Là một vị tướng, đồng thời là một chiến lược gia, một nhà binh pháp nổi tiếng. Trần Quốc Tuấn đã soạn nhiều sách binh pháp và tài liệu giáo dục, cổ vũ lòng trung hiếu cho tướng sĩ.
– Tác giả đã kết hợp ngôn ngữ kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật để khắc họa tính cách nhân vật. Trong đoạn trích, bên cạnh ngôn ngữ của người kể chuyện ta đã bắt gặp ngôn ngữ nhân vật. Câu nói: “Bệ hạ chém đầu tôi trước rồi hãy hàng” đã đi vào trí nhớ của hàng triệu của hàng triệu người đọc các đời sau, khắc họa nhân cách, khí phách của Trần Quốc Tuấn, đồng thời làm sống lại hào khí Đông A một thuở.
– Cách giới thiệu, đánh giá nhân vật từ các góc độ khác nhau: chúng ta có thể bắt gặp cái nhìn nhiều chiều đối với nhân vật trong đoạn trích. Ngoài lời khen, bình luận của người kể chuyện là tác giả, ta thấy có sự đánh giá của các vua Trần Thánh Tông soạn bài văn bia ở sinh từ ca ngợi ông; giặc Nguyên biết tiếng ông “chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên” (Giặc xâm lược cũng phải kính nể); nhân dân cầu đảo ông khi có tai nạn, dịch bệnh (Nhân dân dặt niềm tin rất lớn vào ông); khi đất nước có giặc ngoại xâm, nhân dân đến lễ ở đền ông để cầu “thắng lớn”. Cách giới thiệu nhân vật nhiều chiều như vậy tạo nên vẻ sinh động, chân thực của hình tượng nhân vật.
Từ khóa tìm kiếm
- phân tích nhân vật trần quốc tuấn
- phân tích bài hưng đạo đại vương trần quốc tuấn
- phân tích phần cuối nhân vật hưng đạo đại vương trần quốc toản
- phan tich bai hung dao dai vuong tran quoc tuan
- phân tích hưng đạo đại vương
- phan tich hung dao dai vuong tran quoc tuan
- phân tích hinh vương trần quốc tuấn hưng đao văn 10
- phan tich hinh tuong hung dao vuong tran quoc tuan
- phân tích bài hung
- viet doan van nghi luan trinh bay suy nghi cua minh ve nhan vat tran quoc tuan trong doan trich dai viet su ki toan thu