Cảm nhận về đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 10
Cảm nhận về đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 10 4.8 (96%) 380 votes Cảm nhận về đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Thái Bình Nghệ Tĩnh vùng đất địa linh ...
Cảm nhận về đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Văn mẫu lớp 10 4.8 (96%) 380 votes Cảm nhận về đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Thái Bình Nghệ Tĩnh vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi thoát ẩn của những bậc thỉ sĩ, anh hùng, nơi sinh ra ...
Cảm nhận về đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 1 của một bạn học sinh chuyên Văn trường THPT Lê Quý Đôn Thái Bình
Nghệ Tĩnh vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi thoát ẩn của những bậc thỉ sĩ, anh hùng, nơi sinh ra những con người có chí vững, tâm hồn mạnh bạo. Đại thi hào Nguyễn Du cũng là một trong những người được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy. Sự nghiệp thơ văn của ông không nhiều, nhưng những gì mà ông đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc lại vô cùng đồ sộ, vĩ đại. Truyện Kiều là một trong những kiệt tác của Nguyễn Du. Từ cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân. Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới với cái nhìn mới về con người, xã hội với Nguyễn Du không chỉ là câu chuyện tài mệnh tương đối mà còn là câu chuyện giữa tài và tâm. Chính điều này đã mang đến cho Truyện Kiều có một linh hồn mới, một sức sống mới, phù hợp với tâm hồn của người Việt Nam. Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hoá Việt Nam và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống. Nhân vật trung tâm của Truyện Kiều là nhân vật Thuý Kiều – một con người tài sắc vẹn toàn. Nhưng cũng không tránh khỏi bi kịch của cuộc đời. Đoạn trích Thuỷ Kiều tự thương mình tả lại cảnh Kiều mắc lừa Sở Khanh bị Tú Bà đánh đập tàn nhẫn. Thuý Kiều đành nhận lời tiếp khách làng chơi.
Đoạn trích Kiều thương mình nằm ở vị trí từ câu 1229 đến 1240. Đoạn trích máy móc lên cảnh lầu xanh và tâm trạng của Thuý Kiều sau khi tỉnh giấc và tự thương mình.
Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du đi miêu tả cảnh ăn chơi trác táng ở chốn lầu xanh:
Lầu xanh mới rủ trướng đào
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Trướng đào tức là biểu hiện quảng cáo có hàng mới và có hàng mới ắt có đông người tìm đến, vì đông người nên giá mua vui càng cao.
Hai câu tiếp theo của đoạn trích:
Biết bao bướm lả ong lơi … Dập dìu lá gió cành chim.
Rồi tiếp đó là những cuộc say sưa nào là trận cười, cảnh đưa rước tất cả những cuộc vui đó cứ kéo dài ra quanh năm suốt tháng… Đây chính là cách dùng ngôn ngữ độc đáo của Nguyễn Du khi miêu tả về những cuộc vui ở lầu xanh. Khách làng chơi đến lầu xanh được ví như những loài ong bướm lúc nào cũng lả lơi.
Bướm lả – ong lơi
Lá gió – cành chim
Đây chính là cái độc đáo của Nguyễn Du để diễn tả những du khách làng chơi ở một tầng bậc cao độ. Đây là cảnh sinh hoạt của một ổ ăn chơi, một cái gì đó dữ dội xô bồ, gấp gáp bởi những từ ngữ mà Nguyễn Du sử dụng. Chính sự tác từ đã làm cho cuộc vui tăng lên gấp bội: lả, lơi… một cách ăn chơi nổ trời và không lúc nào ngớt khỏi cảnh kiếm tìm, đưa đón hết người này đến người khác, làm cho tất cả những cảnh đã trông thất được nhân lên gấp bội với hình thức ngôn ngữ đặc biệt. Đó là xé các nhóm từ rồi đan chéo lại với nhau. Cho nên trong một câu thơ, một chủ thể, một vị thể được tách thành hai chủ thế, hai vị thể. Sự tách bạch đó không đơn thuần chỉ được nhân lên về lượng mà còn nhân lên cả về chất. Cuộc sống buông thả, không nền nếp, quy củ mà vô cùng trác tánh.
Kiều thương thân mình khi phải sống ở nơi bùn nhơ
Trước hết câu thơ không có chủ từ, đó là chôn lầu xanh, bởi đâu đâu cũng thấy nàng Kiều xuất hiện, là nhân vật trung tâm của giá ngọc phẩm người:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Nguyễn Du không để cho nàng Kiều xuất hiện trực tiếp mà ông chỉ lách ngòi bút của mình thôi mà đã hiện lên tất cả.
Khi tỉnh rượu cũng là lúc canh đã tàn. Kiều đã tỉnh giấc và thương minh: Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Chỉ với câu thơ này mới đưa nàng Kiều từ phận gái lầu xanh trở về với thân phận nàng Kiều trong chính bản thân mình.
Tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng mình nhất, tự ý thức về những hành động của mình, ý thức về những điều chua chát, đắng cay về bản thân mình. Và một khi đã ý thức được hành động của mình thì đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, và lúc này dây sự trỗi dậy của nhân phẩm, bản chất tốt đẹp của nàng Kiều. Chỉ trong một câu thơ thqi đã nói lên ba chữ mình nhưng Kiều vẫn cảm thấy mình cô đơn. Kiều tự suy nghĩ, đánh giá, tự thương mình. Chữ mình thứ hai có ý nghĩa quan trọng nhất, chính chữ mình này biểu hiện sự tự thương mình lớn nhất, chỉ có mình thấu hiểu hoàn cảnh của mình, bản thân mình và không ai có thế thấu hiểu bản thân mình bằng mình trong lúc này. Chữ mình thứ hai này là loại câu nửa trực tiếp, nửa gián tiếp, là lời tự Kiều nói cho minh, cũng là lời nói của tác giả, tác giả như xông vào câu chuyện của Kiều, như thấu hiểu mọi nguồn cơn, mọi sự tình vào câu chuyện của Kiều để cùng chia sẻ, cảm thông với thân phận bọt bèo, nổi trội cỏa nàng Kiều. Đây là một câu thơ đa nghĩa, có độ sâu làm lay động lòng người.
Sau khi giật mình và tự thương mình thì Kiều luôn sống trong tám trạng buồn thương:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường thế thân?
Mặc người mưa Sở, mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gi?.
Tâm trạng của Kiều lúc này đang có sự phân thân. Hiện tại thì đau đớn, tan tác, chia lìa, nhục nhã đau đớn, đối lập với quá khứ, một quá khứ êm đềm, trong trắng trinh nguyên. Cuộc sống khi xưa thơ mộng đẹp đẽ bao nhiều thì cuộc sống hiện tại nhục nhã ê chề bấy nhiêu. Những dằn vặt da diết đớn đau của một con người bị xô đẩy vào một hoàn cảnh đối lập hoàn toàn với bản chất tâm hồn và với cuộc sống trong sạch trước đấy. Thuý Kiều trước đây là Thuý Kiều rung động trước hình bóng một văn nhân, một đoá hải đường hay một ánh trăng xanh, xúc động trước cảnh ngộ thương tâm của con người đời xưa…
Một lời than, sự ngạc nhiên, sự dằn vặt và ẩn đằng sau là nỗi tủi thân chua xót đến cùng cực mà trước đó là cuộc sống êm đềm hạnh phúc kẻ đón người đưa, tinh khôi, nõn nà, thơm tho… và bây giờ chỉ là một bông hoa tan tác, bị vùi dập giữa đưỡng, bị ngắt khỏi cành bị lìa khỏi cội. Một cuộc sống thật phũ phàng, một cuộc đời thê bỉ, với cảnh tượng dày vò mua đi bán lại:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Ở câu thơ này không đơn thuần chỉ là sự so sánh. Hai từ sao đặt liền nhau câu trước, câu sau tạo nên sự cách biệt, một nhân vật thành 2 nhân vật., hai thân phận. Khi sao – giờ sao đây là 2 khoảng thời gian cách biệt khác nhau cộng lại là nỗi chua xót đắng cay, tủi thân đến vô bờ:
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường thế thân.
Biểu hiện cho cái hiện tại dày gió dạn sương nỗi buồn chán tăng lên gấp bội.
Nói đến mặt là nói đến tâm hồn, thế mà giờ đây mặt trơ trơ. Nàng nhớ đến hành vi đã qua mà cay đắng tủi nhục khôn cùng chi khi tâm hồn chết theo thì Kiều mới sống được ở chốn lầu xanh này à chỉ có thể quên đi những gì êm đềm tốt đẹp trước đây, một thời trướng rủ màn che quên đi bản thân mình thì Kiều mới có thể tồn tại được trong xã hội này.
Thông qua việc miêu tả đoạn trích Kiều tự thương mình Nguyễn Du đã đặc biệt thành công trong việc miêu tả tâm trạng của nàng Kiều. Cái biệt tài của Nguyễn Du trong đoạn trích này là miêu tả tâm trạng cô độc của Kiều, bị tách ra khỏi sự giao tiếp xã hội để giao tiếp với nội tấm thì thiên nhiên lập tức xuất hiện để nối hộ lòng người. Thiên nhiên với con người làm một, cảnh hoà với tình Nguyễn Du có được thành công ấy là do tác giả đã vận dụng sự hiểu biết của mình về cuộc đời trong việc xây dựng, khám phá nội tâm nhân vật cũng như nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách chính xác, lựa chọn, sáng tạo hình ảnh phù hợp với hoàn cảnh. Nguyễn Du đã diễn tả tâm trạng của Kiều, một tâm trạng bi thương, thấm thía. Một con người có ý thức sâu xa về nhân phẩm của mình và giữ gìn phẩm chất ấy cho dù cuộc đời có vùi dập đến đâu vẫn không sao xoá bỏ đươc ý thức ấy cho dù ở chốn lầu xanh. Khi xây dựng nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với nhân vật đồng thời qua đó tác giả cũng lên án, phê phán xã hội một cách sâu sắc.
Cảm nhận về đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 2
Nghệ Tĩnh vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi thoát ẩn của những bậc thi sĩ, anh hùng, nơi sinh ra những con người có chí ý vững bền, tâm hổn mạnh bạo. Đại thi hào Nguyễn Du cũng là một trong những người được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất ấy. Sự nghiệp thơ văn của ông không nhiều nhưng những gì mà ông đóng góp cho kho tàng văn học dân tộc lại vô cùng đồ sộ, vĩ đại. Truyện Kiều là một trong những kiệt tác của Nguyễn Du. Từ cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân. Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới với cái nhìn mới về con người, xã hội. Với Nguyễn Du không chỉ là câu chuyện tài mệnh mà còn là câu chuyện giữa tài và tâm. Chính điều này đã mang đến cho Truyện Kiều một linh hồn mới, một sức sống mới, phù hợp với tâm hồn của người Việt Nam. Truyện Kiều đóng một vai trò quan trọng trong sinh hoạt văn hóa Việt Nam và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống. Nhân vật trung tâm của Truyện Kiều là nhân vật Thúy Kiều – một con người tài sắc vẹn toàn. Nhưng cũng không tránh khỏi bi kịch của cuộc đời. Đoạn trích Thuý Kiều tự thương mình tả lại cảnh Kiều mắc lừa Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tàn nhẫn. Thuý Kiều đành nhận lời tiếp khách làng chơi.
Đoạn trích Nỗi thương mình nằm ở vị trí từ câu 1229 đến 1240. Tái hiện cảnh lầu xanh và tâm trạng của Thuý Kiều sau khi tỉnh giấc thấy xót thương mình.
Mở đầu đoạn trích Nguyễn Du miêu tả cảnh ăn chơi trác táng ở chốn lầu xanh:
Lầu xanh mới rủ trướng đào
Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
Trướng đào tức là biểu hiện quảng cáo có hàng mới và có hàng mới ắt có đông người tìm đến vì đông người nên giá mua vui càng cao:
Hai câu tiếp theo của đoạn trích:
Biết bao bướm lả ong lơi
…Dập dìu lá gió cành chim.
Rồi tiếp đó là những cuộc say sưa nào là trận cười, cảnh đưa rước… tất cả những cuộc vui đó cứ kéo dài ra quanh năm suốt tháng. Đây chính là cách dùng ngôn ngữđộc đáo của Nguyễn Du khi miêu tả những cuộc vui ở lầu xanh. Khách làng chơi đến lầu xanh được ví như loài ong bướm lúc nào cũng lả lơi.
Bướm lả – ong lơi
Lá gió – cành chim
Cảnh sinh hoạt ở một ổ ăn chơi, một cái gì đó dữ dội xô bồ, gấp gáp bởi những từ ngữ mà Nguyễn Du sử dụng khá đặc biệt, xé các nhóm từ rồi đan chéo lại với nhau. Cho nên trong một câu thơ một chủ thể, một vị thể được tách thành hai chủ thể, hai vị thể. Sự tách bạch đó không đơn thuần chỉ được nhân lên về lượng mà còn nhân lên cả về chất. Cuộc sống buông thả, không nề nếp, quy củ mà vô cùng trác tán.
Trước hết câu thơ không có chủ từ, đó là chốn lầu xanh, bởi đâu đâu cũng thấy nàng Kiều xuất hiện là nhân vật trung tâm của giá ngọc phẩm người:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Nguyễn Du không để cho nàng Kiều xuất hiện trực tiếp mà ông chỉ lách ngòi bút của mình thôi mà đã hiện lên tất cả.
Khi tỉnh rượu cũng là lúc đã tàn canh. Hay đúng hơn cũng là lúc cuộc chơi đã hết. Kiều tỉnh giấc và thương mình: Giật mình, mình lại thương mình xót xa. Câu thơ này đã đưa nàng Kiều từ phận gái lầu xanh trở về với con người nàng Kiều đích thực.
Tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng minh nhất, tự ý thức về những hành động của mình, ý thức về những điều chua chát, đắng cay về bản thân mình. Và đôi khi đã ý thức được hành động của mình thì đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, và lúc này đây sự trỗi dậy của nhân phẩm, của bản chất tốt đẹp ở nàng Kiều. Chỉ trong một câu thơ thôi có tới ba chữ mình nhưng Kiều vẫn cảm thấy mình cô đơn. Kiều tự suy nghĩ, đánh giá, tự thương mình. Chữ mình thứ hai có ý nghĩa quan trọng nhất, chính chữ mình này biểu hiện sự tự thương lớn nhất, chỉ có mình thấu hiểu hoàn cảnh của mình, bản thân mình, không ai có thể thấu hiểu bản thân mình bằng mình trong lúc này. Chữ mình thứ hai này nửa trực tiếp, nửa gián tiếp, là lời Kiều tự nói với mình, cũng là lời nói của tác giả, tác giả như thấu hiểu mọi nguồn cơn, mọi sự tình và cùng chia sẻ, cảm thông với thân phận bọt bèo, nổi trôi của nàng Kiều. Đây là một câu thơ đa nghĩa có độ sâu làm lay động lòng người.
Sau khi giật mình và tự thương mình Kiều luôn sống trong tâm trạng buồn thương:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân?
Mặc người mưa sở, mây
Tần Những mình nào biết cố xuân là gì?
Tâm trạng của Kiều lúc này đang có sự phân thân. Hiện tại thì đau đớn, tan tác, chia lìa, nhục nhã đau đớn, đối lập với quá khứ, một quá khứ êm đềm, trong trắng trinh nguyên. Cuộc sống khi xưa thơ mộng đẹp đẽ bao nhiêu thì cuộc sống hiện tại nhục nhã ê chề bấy nhiêu. Những dằn vặt da diết đau đớn của một con người bị xô đẩy vào một hoàn cảnh đối lập hoàn toàn với bản chất, tâm hồn và với cuộc sống trong sạch trước đấy.
Một lời than, sự ngạc nhiên, sự dằn vặt và ẩn đằng sau là nỗi tủi thân chua xót đến cùng cực. Trước là cuộc sống êm đềm hạnh phúc, tinh khôi… giờ chỉ là một bông hoa tan tác, bị dùi dập giữa đường, bị ngắt khỏi cành bi lìa khỏi cội. Cuộc sống thật phũ phàng, cuộc đời thô bỉ, với cảnh tượng dày vò, mua đi bán lại:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Ở câu thơ này không đơn thuần chỉ là sự so sánh hai từ sao đặt liền nhau câu trước, câu sau tạo nên sự cách biệt. Một con người, hai thân phận, cộng lại là nỗi chua xót đắng cay, tủi thân đến vô bờ:
Mặt sao dày gió dạn xương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Nói đến mặt là nói đến tâm hồn, thế mà giờ đày mặt dày gió dạn xương. Nàng nhớ đến những, bướm lả ong lơi mà cay đắng tủi nhục, khôn cùng.
Trong đoạn trích Nỗi thương mình Nguyễn Du đã đặc biệt thành công trong việc miêu tả tâm trạng của nàng Kiều. Biệt tài của Nguyễn Du trong đoạn trích là miêu tả tâm trạng cô độc của Kiều, bị tách ra khỏi sự giao tiếp xã hội để giao tiếp với nội tâm thì thiên nhiên lập tức xuất hiện để nói hộ lòng người. Thiên nhiên với con người làm một, cảnh hòa với tình. Nguyễn Du có được thành công ấy là do tác giả đã vận dụng sự hiểu biết của mình về cuộc đời trong việc xây dựng, khám phá nội tâm nhân vật cũng như nghệ thuật sử dụng từ ngữ một cách chính xác, lựa chọn, sáng tạo hình ảnh phù hợp với hoàn cảnh. Nguyễn Du đã diễn tả tâm trạng của Kiều, một tâm trạng bi thương, thấm thìa. Một con người có ý thức sau xa về nhân phẩm của mình và giữ gìn phẩm chất ấy cho dù cuộc đời có vùi dập đến đâu vẫn không sao xóa bỏ được ý thức ấy cho dù ở chốn lầu xanh. Khi xây dựng nhân vật Thuý Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với nhân vật đồng thời qua đó tác giả cũng lên án, phê phán xã hội một cách sâu sắc.
Cảm nhận về đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du – Bài làm 3
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân! Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thuý Kiều: “Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; Khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; Khi đất nổi ba đào cửa nhà tan tác; Khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; Khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ cùng tê lưỡi…”. Thuý Kiều đã trải qua hầu hết những nỗi đau khổ tái tê nhất của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá. điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.
Vận mệnh và tính cách có màu sắc bi kịch của nàng kiều quán xuyến toàn bộ nội dung tác phẩm. Nhan sắc “nghiêng nước, nghiêng thành”, tài đàn tuyệt diệu, tài thơ mẫn tiệp của nàng rút cục cũng không chống lại được hoàn cảnh. Nàng rơi vào bẫy của Tú Bà và buộc phải tiếp khách làng chơi:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười thâu đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với thủ pháp đối xứng, đan chéo để vừa thể hiện được một thực tế xót xa, thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ, vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật Thuý Kiều, qua đó thể hiện thái đọ trân trọng đầy cảm thông đối với nhân vật của mình.
Thân phận nàng kiều bị cuộc sống lầu xanh cuốn đi, đoạ đầy tưởng bị nhấn chìm trong chốn bùn nhơ không cất đầu lên được. Nhưng nỗi đau đớn của nàng, tâm sự thương mình của nàng, ý thức về nhân phẩm của nàng khiến ta chỉ càng thương nàng hơn, càng trân trọng nàng hơn. Hãy lắng nghe những tâm sự của nàng sau những “cuộc vui”, những “trận cười”:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Vẫn không gian lầu xanh của Tú bà nhưng thời gian đã là “lúc tàn canh”- đêm khuya, thời khắc hiếm hoi, quí giá để con người mình được đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. “Giật mình mình lại thương mìng xót xa”, ba chữ “mình” trong một câu thơ gợi ra tất cả sự cô độc của thân phận. “Giật mình” như một sự bàng hoàng, thảng thốt đau đớn. “Giật mình” vì thấy ghê tởm cho cảnh sống truỵ lạc chốn lầu xanh. “Giật mình” cho chính bản thân, một thiếu nữ khuê các nết na sống trong cảnh “phong gấm rủ là” nay rơi vào cảnh “bướm chán ong chường”. “Giật mình” hay “rùng mình”, bởi tấm thân “gìn vàng giữ ngọc” cho Kim Trọng giờ đành để khách làng chơi giày vò. Vì thế mà bốn chữ “mình lại thương mình” chìm xuống, giọng thơ đầy thấm thía cô đơn xót xa.
Bốn câu hỏi liên tiếp là nỗi niềm dằn vặt, tự đau, tự thương cự độ của “nỗi thương mình”:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Trong bốn câu chỉ có câu đầu nói về quá khứ êm đềm còn ba câu liên tiếp nói về thực tại phũ phàng. Điều đó gây ấn tượng về việc hiện tại đang đè nặng, chôn vùi quá khứ. Bốn từ “sao” lặp lại: “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” là những câu hỏi manh sắc thái cảm thán mạnh bộc lộ nỗi đau xót đến cùng cực trong nỗi đoạ đày ê chề. Lời thơ vừa tức tưởi vừa ai oán, vừa xa xót vừa nghẹn ngào.
Nỗi thương mình của Thuý Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân xót phận là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này sâu sắc và thấm thía hơn cả. Thương thân mình là một cách phản ứng với hiện thực của thân phận. Điều đó cho thấy con người không bị tàn đi, không bị cuốn theo, không bị huỷ diệt. Giữa chốn lầu xanh nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm sánh về tâm hồn. Chính vì vậy mà Từ Hải, Kim Trọng, Nguyễn và người đọc bao thế hệ đều rất trân trọng nàng.
Đoạn thơ vừa thể hiện được giá trị hiện thực vừa có chiều sâu của tư tưởng nhân đạo, một chiều sâu có khuynh hướng vượt thời đại. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm vì sao Truyện Kiều luôn đồng hành cùng với những vui buồn người Việt qua mưa nắng thời gian.
Từ khóa tìm kiếm
- cảm nhận về đoạn trích nỗi thương mình
- cảm nhận nỗi thương mình
- kể về con vẹt
- cảm nhận của em về đoạn trích noi thuong minh
- cảm nhận đoạn trích nỗi thương mình
- Cam nhan cua anh (chi) ve doan trich noi thuong minh
- cam nhan cua e ve doan trich noi thuong minh cua nguyen du
- cảm nhận bài thơ nỗi thương mình
- ve dep tam hon cua thuy kieu trong noi thuong minh lop 10
- Cam nhan cua em ve doan tho noi thuong minh