Phân tích “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” – Văn mẫu hay lớp 11
Xem nhanh nội dung Phân tích "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Phú Yên Bài ca ngắn đi trên cát dựng lên hình tượng một con người đi giữa một bãi cát mênh mông, mỗi bước chân đều bị lún xuống cát, cho nên hễ tiến lên một bước lại phải ...
Xem nhanh nội dung
Phân tích "Bài ca ngắn đi trên bãi cát" – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Phú Yên
Bài ca ngắn đi trên cát dựng lên hình tượng một con người đi giữa một bãi cát mênh mông, mỗi bước chân đều bị lún xuống cát, cho nên hễ tiến lên một bước lại phải lùi lại một bước. Ngay từ đầu, bài thơ đã sử dụng điệp âm, và điệp âm đặt trong cách ngắt nhịp 2/3 liên tiếp trong hai câu thơ năm chữ đã gợi lên cái cảm giác của bước chân người đi luôn luôn bị kéo giật lại :
Trường sa / phục trường sa,
Nhất bộ / nhất hồi khước.
(Cát dài / bãi cát dài,
Mỗi bước / lùi một bước)3
Con người đi trong trạng thái bất thường như thế tất nhiên là đi liên miên suốt đời mà không bao giờ thấy đích. Anh ta không còn chút ấn tượng nào về thời gian, về sáng tối. Chỉ có nỗi phiền muộn cứ chất mãi lên trái tim anh :
Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
(Mặt trời đã lặn đi chưa nghỉ,
Bộ hành nước mắt lã chã rơi).
Bài thơ cho thấy, chỉ mới ở tuổi trong ngoài ba mươi, Cao Bá Quát đã cảm nhận được sự bế tắc cùng cực của một loại hình nhà nho không hợp khuôn với chế độ hiện hành. Nhà thơ tự đặt ra một lối thoát là trong cuộc đi vô tận đó, nếu người ta có thể ngủ đi được theo phép “thụy du” của những ông tiên thì may ra mọi nỗi thống khổ mới chấm dứt. Tiếc thay phép thụy du đối với những người vốn đã quá tỉnh lại chẳng có chút gì hiệu lực. Vì thế, càng đi trong sự tỉnh táo thì mọi nỗi oán hận trong lòng người đi chỉ càng thêm chất chồng :
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng ?
(Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non lội suối giận sao nguôi ?)
Và nhà thơ lại thử làm một phép so sánh giữa loại “hành nhân” đáng gọi là tỉnh kia với vô số những người ngược xuôi vì danh lợi, thì hóa ra số người tỉnh rất ít, còn tất cả bọn họ đều là người say :
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung;
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu, túy giả đồng.
(Xưa nay phường danh lợi,
Bôn tẩu trên đường đời;
Gió thoảng hơi men trong quán rượu,
Say cả hỏi tỉnh được mấy người ?)
Sự đối lập thức / ngủ và tỉnh / say thực ra chỉ là những biện pháp loại trừ nhằm giới hạn dần và soi tỏ từng bước đặc trưng loại biệt của đối tượng. Và đến đây, cảm hứng về một con người lầm lũi đi không biết tháng biết năm, đi mà không bao giờ tới đích, đi nhưng vẫn cứ như dẫm chân tại chỗ… ở đầu bài thơ được tiếp thêm bởi cái cảm hứng về sự cô đơn tuyệt đối của chính người bộ hành ấy, đã nâng hình tượng trữ tình của bài thơ lên mức một ẩn dụ có sức ám ảnh ghê gớm : người hành nhân ấy vẫn cứ đang mải miết đi, nhưng nhìn lên phía Bắc thì muôn ngọn núi lớp lớp đã sừng sững chắn mất lối; ngoảnh về Nam, núi và sóng hàng muôn đợt cũng đã vây phủ lấy mình. Và nhìn khắp bốn phía, thì nào có còn ai, chỉ còn độc một mình mình đứng trơ trên bãi cát. Bài thơ mở đầu bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc, đều là câu năm chữ, như muốn ném ra giữa cuộc đời một nhận xét chua chát về sự cố gắng tìm đường vô ích. Kế tiếp là hai cặp câu vần bằng dài – ngắn và hai cặp câu vần bằng xen trắc, cùng dài nhưng khác vần, biểu hiện những quặn khúc trong quá trình cọ xát với thực tiễn của chủ thể trữ tình / con người lặn lội tìm đường một cách hoài công :
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng/
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung/
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng/
Trường sa trường sa nại cừ hà !
Thản lộ mang mang úy lộ đa/
Thế rồi ở phần cuối, bài thơ kết thúc bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc bảy chữ, báo hiệu một cái gì đang thắt lại trong tư tưởng, là cái tuyên ngôn “cùng đường” của nhà thơ. Phép điệp âm ở đây lại được sử dụng tiếp, cài vào nhau, đan chéo nhau, đẩy cảm giác nhức nhối đến cùng tột :
Thính ngã nhất xướng “cùng đồ” ca :
Bắc sơn chi Bắc / sơn vạn điệp,
Nam sơn chi Nam / ba vạn cấp;
Quân hồ vi hồ sa thượng lập ?
(Nghe ta ca “cùng đường” một khúc :
Phía Bắc núi Bắc / núi muôn lớp,
Phía Nam núi Nam / sóng muôn đợt;
Sao mình anh trơ trên bãi cát ?)
Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất hết ý niệm về thời gian vì những cuộc đi, lại mất luôn cả ý niệm về phương hướng vì không còn có không gian xoay trở. Đấy là con người mất ý thức về lẽ tồn tại. Nhưng câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, cho nên cần hiểu : trong cảnh ngộ tuyệt vọng, con người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc mắc mà không giải đáp nổi vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất lý do tồn tại của mình.
Phân tích tác phẩm Bài ca ngắn đi trên bãi cát của nhà thơ Cao Bá Quát – Bài làm 2
1. Kết cấu bài thơ.
Có thể chia bài thơ thành hai đoạn chính:
Đoạn 1 (gồm 10 câu thơ đầu): liên hệ so sánh bãi cát với đường danh lợi.
Đoạn 2 (gồm 6 câu thơ còn lại): suy nghĩ về sự gian khó và bế tắc của bãi cát dài – tức con đường danh lợi.
Nhưng trong mỗi đoạn, ta lại có thể thấy kết cấu phổ biến của thơ cổ (xúc cảnh sinh tình – tâm tiếp xúc với cảnh và tình nảy sinh): bao giờ cũng tả cảnh để từ cảnh đưa đến suy tư, cảm xúc. Đi trên bãi cát để thấy con đường danh lợi gian nan, trắc trở như thế nào (đoạn 1); đi trên bãi cát để có cảm giác con đường cùng (bế tắc), xung quanh núi, biển bao vây. Câu hỏi cuối cùng như lời kêu gọi mọi người cùng suy nghĩ về con đường danh lợi vẫn đang đi.
2. Hình tượng bãi cát.
– Đoạn 1: Hai câu thơ đầu miên tả thực bãi cát, hai câu tiếp theo tả tâm trạng người đi trên bãi cát. Nhà thơ chọn được hai yếu tố tiêu biểu: về không gian, đó là bãi cát dài mênh mông, đi được một bước lại lùi lại một bước; về thời gian, ngày đã tàn, mặt trời đã lặn, lẽ ra đã được nghỉ ngơi nhưng vẫn phải đi tiếp chừng như bãi cát quá rộng và dài, chưa tìm được chốn nghỉ. Ta hiểu vì sao nhân vật người đi đường nước mắt lã chã rơi. Nhưng bài thơ không dừng lại ở việc tả thực mà khai thác nghĩa tượng trưng của bãi cát dài. Đó là con đường danh lợi. Vì thế nên tiếp theo sau khi tả cảnh bãi cát là lời bình luận đầy triết lí:
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung.
(Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên đường đời.)
Rõ ràng, từ nghĩa tả thực của bãi cát, tác giả dẫn dắt liên tưởng đến con đường danh lợi. Một cách đặt song song: Người đi trên bãi cát một bước lùi một bước/Người tìm danh lợi tất tả trên đường đời. Thái độ của tác giả đối với danh lợi bộc lộ tiếp tục qua hình ảnh quán rượu tấp nập, nơi người tỉnh thì ít mà người say thì nhiều. Hình tượng này cho thấy thêm một cách nhìn đối với sự cám dỗ của danh lợi:
Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng.
(Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?)
– Đoạn 2:
Trường sa, trường sa nại cừ hà?
Thán lộ mang mang úy lộ đa
Thính ngã nhất xướng tùng đồ ca,
Bắc sơn chi bắc sơn vạn điệp,
Nam sơn chi nam ba vạn cấp.
Quân hồ vi hồ sa thượng lập?
Vượt qua sự tả thực, tác giả khái quát về con đường trừu tượng có nét tương đồng với bãi cát dài (bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, bước đường ghê sợ thì nhiều). Con đường đó được gọi làcùng đồ (đường cùng) bởi xung quanh là núi và biển bao vây trùng điệp. Phải đi tiếp để thoát khỏi con đường cùng ấy.
Như vậy, ta có thể mô tả sự vận động của hình tượng bãi cát bằng một sơ đồ sau: Bãi cát dài -> đường danh lợi -> con đường cùng. Cao Bá Quát đã nhận thấy sự bế tắc của con đường danh lợi mà người đời vẫn bước đi.
3. Nhịp điệu của bài thơ.
Về thể hành (hay ca hành), có những nét nghệ thuật độc đáo so với thơ Đường luật. Nhưng nét đặc sắc nhất có lẽ là nhịp điệu bài thơ có khả năng mô tả hình tượng con đường trắc trở, gập ghềnh với những bước đi nặng nề, khó nhọc. Trong nguyên văn, nhịp này rõ hơn là trong bản dịch thơ.
– Trường sa / phục trường sa,
Nhất bộ / nhất hồi khước.
– Trường sa, / trường sa / nại cừ hà?
– Bắc sơn chi bắc / sơn vạn điệp,
Nam sơn chi nam / ba vạn cấp.
Nhịp điệu bài thơ được tạo nên nhờ có sự phối hợp thanh điệu bằng trắc với việc đặt thanh trắc ngắt giữa câu, việc lặp lại (trùng điệp) một từ ngữ để gây ấn tượng (trường sa, nhất, bắc, nam), cách ngắt dịp mang tính mô phỏng bước đi đem lại ấn tượng dồn dập. Kỹ thuật dùng âm thanh và ngắt nhịp để mô phỏng cảnh vật được các nhà thơ xưa nay sử dụng (ví dụ bài thơ Tây tiến của Quang Dũng tả dốc núi bằng nhịp điệu và từ trùng lặp Dốc lên khúc khuỷu / dốc thăm thẳm; Ngàn thước lên cao / ngàn thước xuống). Những câu hàm chứa suy tư bình luận thì không mô phỏng bước đi, thường có độ dài lớn hơn các câu tả bãi cát và bước đi. Quan hệ giữa nội dung và hình thức trong bài thơ đã được nhà thơ xử lý thành công.
Vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua Bài ca ngắn đi trên bãi cát và Bài ca ngất ngưởng – Bài làm 3
Phải nói rằng có những nhà thơ, nhà văn mà bóng dáng của họ giờ chỉ là niềm hoài cổ, dĩ vãng xa xưa. Nhưng ngược dòng thời gian, vẻ đẹp tâm hồn của những con người ấy vẫn mãi toả sáng, vĩnh hằng. Chúng ta càng thấm thía hơn điều đó khi đến với”bài ca ngắn đi trên bãi cát” của Cao Bá Quát và “bài ca ngất ngưỡng” cuă Nguyễn Công Trứ- hai tác phẩm thấm đẫm vẻ đẹp nhân cách của nhà nho chân chính.
Trước hết, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua hai tác phẩm đều là sự thể hiện quan điểm của mình về con đường danh lợi. Tuy nhiên mỗi người lại có một cách bộc lộ khác nhau về ước mơ thời đại ấy. Cao Bá quát chán ghét thốt lên rằng:
“Bãi cát dài bãi cát dài ơi
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khấch trên đường nước mắt rơi”
Phẳi chăng do quá lận đạn với dường danh lợi nên ông đx không mấy khất khao khi nhắc đến nó? Với ông dường như sự nghiệp đậu đạt làm quan là quá gập ghềnh, trắc trở. Nói diều ấy không có nghĩa Cao Bá Quát không có tài mà ngược lại, ông là một người có học vấn uyên thâm. Nguyên ngân chủ yếu làm mất đi một nhân tài đất nước như ông cũng là vì sự suy thoái cử xã hội, sự khủng hoảng của thời đại. Với cách sử dụng hình tượng bãi cát đầy tính gợi hình, và hình ảnh người đi trên bãi cát vô cùng tinh tế, Cao Bá Quát đã miêu tả rất thành công sự mệt nhọc, vất vả của người đi trên con dường danh lợi. Con dường ấy dài lắm, khó đi lắm đến nỗi giọt nước mắt của những người trí thức phải tuôn rơi. Giọt nước mắt đó là tiếng khóc cho sự vất vả, mệt mỏi, giọt nước mắt khóc thương cho biết bao năm đèn sách không là gì cả mà hơn nữa, đó là tiếng khóc của thời đại, tiếng lòng bi thương cho một xã hội suy đồi. Còn đến với Nguyễn Công Trứ, ta lại cảm nhận một suy nghĩ khác:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”
May mắn hưon Cao Bá Quat, Nguyễn Công Trứ rất thành công trong sự nghiệp của mình, nhưng không vì thế mà ông đề cao con đường làm quan. Dường như có một sự tương đồng nho nhỏ trong suy nghĩ của hai nhà nho lớn khi Nguyễn Công Trứ cũng camt thấy bị gò bó, ép buộc chốn quan trường. Điều ấy được thể hiện sâu sắc qua từ “vào lồng”. Có lẽ rằng sống trong thời đại đó thì cái đíh phấn đấu cuối cùng của nhà nho là một chức quan. Với họ, học là để thi cử, dèn sách là để được vinh danh. Nhưng chúng ta không nên quá phê phán lối suy nghĩ ấy bởi đó là mục đích sống của cả một thế hệ. Nếu nhue không đi theo con đường ấy, họ sẽ chẳng có một lối rẽ nào khác cả.
Không dừng lại ở đó, cả Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ đều để lại một dáu ấn riêng qua Tác phẩm của mình để khẳng định phong cách . Với Cao Bá Quát, phong cách nhà nho chân chính thật sự toả sáng kho ông có quan niệm sống vô cùng tiến bộ.
Con đường danh lợi gập ghềnh đến thế thì bạn hãy tự thoát ra. Một bước đi để đường đời thay đổi, để không còn phải vất vả bon chen, hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn. Đâu phải chỉ có làm quan mới là con đường duy nhất đi tới thành công, hãy chọn cho mình một lối rẽ riêng, không xô bồ, chen lấn.Đừng để vòng xoáy danh lợi nhấn chìm những con người tài giỏi vào hố sâu, dũng cảm bước ra khỏi vòng xoáy ấy mới là quyết định sáng suốt nhất. Cao Bá Quát đã có một quan niệm rất đúng đắn, vượt qua thời đại để hướng con người tới một cuộc sống hạnh phúc hơn. Đó cũng là bước đi đầu tiên để làm thay đổi xã hội, thoát khỏi sự lũng đoàn, suy đồi. Từ đó, Cao Bá Quát đã trở thành một biểu tượng của nhà nho chân chính, rất khác biệt so với các thế hệ trước. Cũng là một nhà nho chan chính, vẻ đẹp nhân cách của Nguyễn Công Trứ thể hiện qua phong cách, bản lĩnh cá nhân của mình.
… “Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nen dạng tằ bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi gì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.”
Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình vô cùng “ngất ngưởng”. Ông luôn làm những điều khác thường, không giống người trong khi mình là một vị quan trên muôn dân. Không những thế, ông còn khoe khoang tự đại về thành tích, công lao của mình, rồi coi mình cao hơn người khác. Hơn thế nữa, Nguyễn công Trứ còn có một cuộc sống vô cùng tự do,phóng khoáng. Vượt lên cả những lời đồn thổi tầm thường, ông sống mà không để ý đến xung quanh. Một cuộc sông đúng với choính mìn, sống thật với bản thân. Nhưng ông mãi sống trong lòng nhân dân với một hình ảnh vô cùng tốt đẹp, rất đáng kham phục. Cũng bởi vì ông đã công hién rất nhiều cho công cuộc xây dựng đất nước, có những tháng ngày sống hết mình vì nhân dân. Cành đáng trân trọng hơn nữa đó là ông đã dám thể hiện cái “tôi” cá mhân của mình. Một cái tôi bản ngã – vượt lên thời đại. Một nhà nho chân chính là người dám nói, dám thể hiện bản lĩnh của mình trước thiên hạ. Và ông đã làm được điều đó, xứng đáng với vị trí của mình trong đất nước.
Đúng vậy, vẻ đẹp nhân cách nhà nho chân chính qua 2 tác phẩm “Bài ca ngăn đi trên bãi cát” và “Bài ca ngất ngưỡng” được thể hiện rất thành công. Tuy mỗi người có một phong cách riêng nhưng nó đều đã trỏ thành một nốt nhấn thời đại, trở thành điểm sáng thẩm mĩ trong lòng người đọc bởi ấy là vẻ đẹp biểu tượng của con người Việt Nam trong thời đại dĩ vãng, xa xưa.
Phân tích Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát – Bài làm 4
Trong văn đàn văn học Việt Nam thế kỉ XIX, xuất hiện nhai câu thơ truyền tụng ca ngợi về những nhà thơ xuất chúng thời bấy giờ tuyên truyền rằng vua Tự Đức :
"Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”.
Nổi bật trong bốn trụ cột văn học này là Cao Bá Quát nổi tiếng là một văn tài có nhiều ý tứ mới lạ lời lẽ cao kì. Ông là một người tài cao học rộng nhưng không được trọng dụng giữa chính sự suy đồi. Ông bất đắc chí, khinh thế ngạo mạn nên thơ văn thường thiên về khuynh hướng phản kháng, phẫn uất, chán nản. Qua bài thơ “Bài ca ngắn đi trên bãi cát” chúng ta ắt sẽ biết điều đó.
Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
Không học được tiên ông phép ngủ.
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!
Xưa nay phường danh lợi
Tất cả trên đường đời
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số tỉnh bao người ?
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít?
Hãy nghe ta khát khúc đường cùng
Phía nam núi Nam sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Ngay ở đầu bài thơ chúng ta đã thấy xuất hiện “bãi cát ” được lặp lại hai lần: “Bãi cát lại bãi cát dài”. Bãi cát ở đây là hình ảnh được tác giả tả thật, gợi lên một không gian khó khăn vất vả dài thăm thẳm. Thông thường chúng ta đi trên cát rất là khó không giống như chúng ta đi trên con đường bình thường, chân bước đi nhưng cứ bị lùi về phía sau. Trên bãi cát rộng mênh mông ấy là một con đường rộng lớn mù mịt, rất khó xác định được phương hướng giống như chúng ta đứng giữa biển cả bao la chúng ta sẽ không biết đâu là bến bờ. Đó không phải là con đường thực mà là con đường hiểu theo nghĩa tượng trương cho một con đường xa xôi mù mịt. Để tìm ra được chân lí, tìm ra được cái đích thì con người phải vượt qua bao nhiêu là khó khăn thử thách.
Trên bãi cắt ấy có hình ảnh con người đó chính là tác giả, người đi trên bãi cát. Một con người nhỏ bé, lẻ loi cô độc đi trên bãi cát rộng mênh mông vô tận. Bước chân của người đi trên bãi cắt rất khó khăn, như là dậm chân tại chỗ. “Đi một bước như lùi một bước”. Ta thấy được nỗi chán nản, bất mãn của tác giả khi mình phải hành hạ thân xác để theo đuổi con đường công danh.
“Bãi cát lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”.
Người đi trên bãi cát lòng đang ai oán vì công đường công danh của mình mãi mà không tới đích, không đành lòng làm một kẻ “ngủ quên” để lấy cơ mà rời bỏ đường đi.
Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo nôn lội suối giận khôn vơi!
Xưa nay phường danh lợi
Tất cả trên đường đời
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số, tỉnh bao người?
Tác giả còn nói đến sự cám dỗ của công danh đến người đời. Hình ảnh đó được tác giả minh họa bằng hình ảnh thức tế đó là ở đâu có quán rượu ngon mọi người đều xô bồ đến, có được mấy ai tỉnh táo để tránh được sự cám dỗ của men rượu nồng. Qua đó tác giả muốn thức tỉnh người đọc về vấn đề công danh cũng là thứ rượu lầm thay đổi lòng người. Ông khinh thường những phường danh lợi tầm thường kia, nhưng cũng nhận ra sự cô độc của chính bản thân mình. Phải chăng con đường mà ông dấn thân vào, lí tưởng mà ông đang đeo đuổi, chỉ là điều vô ích, chẳng ai để ý quan tâm. Ông không có ai ủng hộ, cũng không có người đồng hành. Niềm xúc động ấy đã đưa tác giả trở về với hiện thực. Điều này giúp ông nhận ra rằng mình cần thoát khỏi con đường công danh. Nếu đi tiếp thì ông cũng chỉ là những kẻ phường danh lợi đáng khinh miệt mà thôi. Trong lòng lúc này có nhiều nỗi dằn vặt mâu thuẫn dàn xé tâm can. Sự nối tiếc ấy là sự nối tiếc vì đường đau khổ, mờ mịt nhưng lại quá cao sang, đẹp đẽ. Thôi thì đành đứng chôn chân trên bãi cát vậy.
Bãi cát dai, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc đường cùng,
Phía bắc núi Bắc muôn trùng
Phía nam núi Nam sóng dào dạt
Anh đứng làm chi trên bãi cát?
Nỗi băn khoan choáng lấy lấp đầy tâm hồn tác giả. Và lần đầu tiên người đã phân vân tự hỏi, vậy là thế nào có nên đi tiếp hay từ bỏ nó : “Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt”. Nếu đi tiếp thì cũng không biết phải đi như thế nào. Bởi đường bằng thì mờ mịt, đường ghê sợ thì nhiều. Vì thế chắc đã đến bước đường cùng. Nỗi bế tắc tuyệt vọng phủ đầy trên người đi và trên cả bãi cát. Người đi chỉ còn biết cất lên tiếng hát khúc đường cùng và sự tuyệt vọng của mình.
“Bài ca ngắn đi trên bãi cát” được thể hiện theo cách đa chiều. Khi thì được miêu tả như một lữ khách đi đường, khi tì lại như người đối thoại. Mục đích của tác giả muốn gửi gắm ở đây là chúng ta phải có những tâm trạng khác nhau, thái đọ khác nhau khi đứng trước những khó khăn thử thách. Và qua đó cũng nêu lên được sự chán ghét của một người tri thức với con đường danh lợi và khát khao thay đổi cuộc đời.
Thu Thủy (Tổng hợp)