Cảm nhận khi đọc cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử của Thuý Lan – Văn mẫu lớp 6
Cảm nhận khi đọc cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử của Thuý Lan – Văn mẫu lớp 6 4.8 (96%) 380 votes Cảm nhận khi đọc cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử của Thuý Lan – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử la một bài bút ...
Cảm nhận khi đọc cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử của Thuý Lan – Văn mẫu lớp 6 4.8 (96%) 380 votes Cảm nhận khi đọc cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử của Thuý Lan – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử la một bài bút kí khá đặc sắc. Từ góc nhìn nhà báo và chất văn bút kí, Thuý Lan đã ...
Cảm nhận khi đọc cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử của Thuý Lan – Bài làm 1 của một học sinh giỏi Văn tỉnh Thanh Hóa
Cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử la một bài bút kí khá đặc sắc. Từ góc nhìn nhà báo và chất văn bút kí, Thuý Lan đã tạo ra một mạch cảm xúc độc đáo về cây cầu lịch sử.
Lần theo các dòng bút là pha nhiều chất hồi kí của Thuý Lan, chúng ta gặp lại chiếc cầu Long Biên như gặp lại một chứng nhân lịch sử.
Từ một cây cầu sắt nối đôi bờ sông Hồng, cầu Long Biên đã được nhân hoá thành con người có lí lịch, có lịch sử, có cảm xúc buồn vui… như bao con người khác. Dường như tác giả thổi hồn mình vào vật, để vật cũng thấm đẫm tình người.
Cầu Long Biên ra đời là kết quả của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, là thành tựu quan trọng của thời văn. minh cầu sắt. Nhưng sự thai nghén chào đời của cây cầu lịch sử này đã gắn liền với bao mồ hôi, nước mắt và cả bao xương máu của những người dân phu Việt Nam. Người ta còn ghi lại những cảnh ăn ở khổ cực của dân phu và cảnh đối xử tàn nhẫn của những ông chủ người Pháp đã khiến cho hàng nghìn người Việt Nam bị chết trong quá trình làm cầu. Thật là khủng khiếp! Chỉ một vài dòng ngắn ngủi, bài viết đã gợi ra được số phận bi thảm của một dân tộc nô lệ trong một thời kì lịch sử đen tối. Gần nửa thế kỉ tuổi đời ban đầu của mình, cầu Long Biên đã trở thành nhân chứng sống chứng kiến bao đau thương của một dân tộc.
Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng chiến tranh chưa kết thúc. Cầu Long Biên lại một lần nữa chứng kiến những đêm
Hà Nội “đất trời bốc lửa” kiên cường chống Pháp. Những thời khắc lịch sử hào hùng ấy được tác giả gợi lại bằng nỗi nhớ những ngày đầu năm 1947, cái ngày người dân Thủ đô cùng Trung đoàn yêu dấu của mình bí mật ra đi – những ngày vừa bi thương vừa hùng tráng:
Những đèm ra đi đất trời bốc lửa
Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng Hồn phất phơ mười phương cờ đỏ thắm Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm
Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa…
Hoà bình vừa lập lại chưa bao lâu thì một trang sử mới đầy đau thương, oanh liệt, bi hùng lại đến, cầu Long Biên đã chứng kiến những năm tháng cả dân tộc chống Mĩ cứu nước đầy cam go, ác liệt. Ngay một vật vô tri vô giác như cầu Long Biên mà cũng trở thành mục tiêu bắn phá, hứng chịu biết bao nhiêu tấn bom đạn của không lực Hoa Kì. Chiếc cầu rách nát, tả tơi như ứa máu. Đau thương nhưng không gục ngã, cái bản tính ấy của con người Việt Nam đã truyền sang cây cầu, khiến nó cứ sừng sững giữa mênh mông trời nước, bất chấp, bom đạn tàn bạo, khốc liệt của kẻ thù. Đây chính là thời kì bi thương và hào hùng nhất trong lịch sử cầu Long Biên và trong lịch sử dân tộc! Cầu Long Biên đứng đỏ như một chứng nhân sống động, đau thương và anh dũng..
Chiến tranh đã kết thúc. Hoà bình đã lập lại. Một cuộc sống êm đềm, bình dị và đầy ắp niềm vui. Cầu Long Biên vẫn như một chứng nhân lịch sử chứng kiến những thay da đổi thịt của quê hương với bao màu xanh thân thương, Làng mạc trù phú.
Thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã có thêm những cây cầu hiện đại hơn sừng sững vượt sông Hồng. Cầu Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường, nhưng giá trị của nó đã từng là nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng của Hà Nội, của đất nước và của con người Việt Nam thì mãi mãi tồn tại.
Từ việc giới thiệu, khắc hoạ cầu Long Biên với tư cách một chứng nhân lịch sử, Thúy Lan bày tỏ những cảm xúc, tình cảm yêu mến, tự hào và gắn bó với cây cầu lịch sử. Tình cảm ấy thật tha thiết và mãnh liệt.
Người đọc thật sự xúc động bởi những cảm xúc sôi nổi trào dâng trong câu văn thấm đậm chất trữ tình.
Tôi vẫn nhớ như in hình ảnh chiếc cầu được vẽ trang trọng giữa trang sách với bài thơ… Những câu thơ ấy đã nằm sâu trong trí óc tôi…
Mỗi lần có dịp đứng lên cầu Long Biên, tôi lại say mê ngắm nhìn màu xanh bãi mía, nương dâu, bãi ngô, vườn chuối phía Gia Lâm không bao giờ chán mắt. Cái màu xanh cần lao ấy gợi bao yêu thương và yên tĩnh trong tâm hồn. Khi chiều xuống, nhìn về phía Hà Nội, thấy những ánh đèn mọc lèn như sao sa, gợi lên bao quyến rủ và khát khao.
Tôi nhớ những ngày đầu năm 1947…
“Tôi nhớ những năm tháng chống đế quốc Mĩ oanh liệt và hào hùng…
Sự gắn bó với cây cầu sâu sắc đến mức, dường như tác giả cảm nhận được nỗi đau thương của cây cầu, thấy được nó rách nát, tả tơi như ứa máu đau đớn, xót xa khi thấy câu cầu bị đánh hỏng. Tôi chạy ngay lên cầu khi tiếng bom vừa dứt. Những cảnh vệ dầu cầu đã ngăn không cho tôi lên. Nước mắt ứa ra, tôi tưởng như minh đứt từng khúc ruột.
Và tình cảm ấy mãi mãi thuỷ chung để đến hôm nay tác giả vẫn cố gắng truyền tình yêu cây cầu vào trái tim du khách nước ngoài đặng bắc một nhịp cầu vô hình nơi du khách để du khách ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam.
Bài văn khép lại, nhưng cảm xúc của Thuý Lan với cây cầu lịch sử và tình yêu đất nước thiết tha của nhà văn vẫn còn đọng lại mãi nơi người đọc, để lại trong họ nhiều dư vị ngọt ngào.
Cảm nhận khi đọc cầu Long Biên – chứng nhân lịch sử của Thuý Lan – Bài làm 2
Văn bản nhật dụng này cung cấp cho chúng ta những thông tin bổ ích về một danh lam thắng cảnh của thủ đô. Những hiểu biết ấy có thể còn sơ sài, nhưng có lẽ ấn tượng mà bài viết này mang lại chủ yếu là một cách nhìn riêng, một cảm nhận riêng. Cả thông tin và cảm nhận ấy giúp ta hiểu biết và mến yêu, dù mới chỉ là bước đầu về cây cầu Long Biên với tư cách là một chứng nhân lịch sử. "Chứng nhân" và "chứng tích" khác nhau chính là ở chỗ ấy, ở chỗ là cây cầu đã đi vào lịch sử "đau thương và anh dũng của thủ đô Hà Nội" thân yêu, đã thân thiết với trái tim hàng chục triệu người từ Nam đến Bắc. Bài văn viết theo thể loại bút kí, từ nhận xét khái quát, nó lần theo dấu vết thời gian, và cuối cùng đọng lại với cảm nghĩ bắc cầu, không phải một thứ cây cầu "dải yếm" cho những cặp tình nhân trong ca dao thuở trước mà cho mọi du khách các phương trời gần lại với đất nước Việt Nam.
1. Bài viết mở đầu bằng một nhận xét khái quát có tính chất định hình ở hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất là lai lịch (vị trí, thời gian thi công, tác giả thiết kế), còn cấp độ thứ hai, cấp độ lịch sử: cây cầu đã song hành cùng một thế kỉ đã qua, đã "chứng kiến bao sự kiện" buồn vui, còn mất của một dân tộc "đau thương và anh dũng" ! Hàm lượng trí tuệ và tâm hồn dồn nén vào từng chữ, từng câu như sự khai mở tâm tình. Biện pháp so sánh ở đây nhằm tôn vinh cây cầu mà dư âm còn mãi với lòng người đến mức không một thứ cây cầu nào dù hiện đại đến đâu có khả năng thay thế. Hai cấp độ trên đây đan cài vào nhau chạy dọc toàn bài, độ đậm nhạt có chỗ không đồng đều, điều ấy còn tuỳ thuộc vào yêu cầu khách quan của việc thuyết minh, miêu tả, vào hoài niêm từ kí ức chủ quan của người viết hiện về. Nhân vật đóng vai sẽ có sự luân chuyển cho nhau : lúc ở ngôi thứ ba, khi thì ngôi thứ nhất cũng là vì thế.
2. Cầu Long Biên khi mới khánh thành, đó là một sự kiện. Nó mang ý nghĩa hai mặt của tấm huân chương, về vẻ thở mộng của cây cầu khi nhìn nớ từ xa, ta liên tưởng đến một dải lụa uốn lượn, về biểu tượng của một nền công nghiệp phát triển, thì hiển nhiên nó được coi là "một thành tựu quan trọng trong thời văn minh cầu sắt". Còn mặt trái của cái kì công có một không hai lúc đó trên đất nước Việt Nam, có một cái gì không sạch sẽ (xuất phát từ mục đích khai thác thuộc địa của bọn thực dân), thậm chí còn đáng căm thù (hàng nghìn người Việt Nam bị chết trong quá trình làm cầu). Giọng văn thuyết minh còn tiếp tục dưới dạng mô tả: cầu Long Biên có ba tuyến đường : đường sắt, đường ô tô và đường bộ. Nếu lấy tiêu chí của một cây cầu hiện đại của thế kỉ XXI nhìn vào thì những kích thước tưởng như lớn lao thời ấy "chỉ hợp với thời kì mà phương tiện đi lại còn ít, chủ yếu là các loại xe thô sơ". Nhưng dường như để bù đắp vào những thiếu hụt còn đáng phàn nàn trên đây là bao nhiêu kỉ niệm hiện về. Tính hồi kí đã thay cho bút kí. Cầu Long Biên với các thế hệ học đường là những dòng chữ nhập tâm trước khi đến lớp. Câu thơ được nhớ dù chưa phải là thơ hay nhưng nó vẫn ấp ủ tâm hồn bao nhiêu đứa trẻ thơ ngây. Còn lớn hơn một chút, chiếc cầu quen thuộc ấy đã có sức nối liền hai bờ tâm tưởng giữa thế giới của cái màu xanh cần lao bình dị của bãi mía, nương dâu phía Gia Lâm với thế giới của những ánh đèn Hà Nội đầy quyến rũ và khát khao. Trong mảnh kí ức xa xôi trở về, có một điểm nhấn : đầu năm 1947, Trung đoàn Thủ đô rút khỏi thủ đô với hào khí ngất trời. Đoạn văn nói về cây cầu mà như những lời tâm sự. Từ ngữ trong đoạn văn có ý nghĩa biểu cảm khá cao : say mê ngắm nhìn, không lúc nào chán mắt, yêu thương và yên tĩnh, quyến rũ và khát khao. Nó tri âm với những tâm hồn ưu tư và mơ mộng.
Thời kì chống Mĩ oanh liệt, cầu Long Biên nhiều lần bị trọng thương khi trở thành "mục tiêu ném bom dữ dội nhất của không lực Hoa Kì". Ngôn ngữ thuyết minh trở lại với những con số tàn nhẫn khách quan : đợt thứ nhất cầu bị đánh mười lần, đợt thứ hai bốn lần, lần cuối cùng, chiếc cầu bị ném bom la-de. Nhưng những con số trên đây là những con số biết nói, vì tiếng nói của người thuyết minh là tiếng nói của người trong cuộc. Chẳng hạn như giọng văn căm phẫn, bi thương mà tự hào vô hạn sau đợt máy bay đánh lần thứ hai : "Những ngày ấy từ phía Cầu Đất nhìn lên, tôi thấy chiếc cầu rách nát giữa trời. Những nhịp cầu tả tơi như ứa máu, nhưng cả cây cầu vẫn sừng sững giữa mênh mông trời nước". Còn sau đó, năm 1972, chiếc cầu bị đánh bom la-de, được kổ lại bằng một giọng xót xa tiếc muối : "Tôi chạy lên cầu ngay khi tiếng bom vừa dựt. Nước mắt ứa ra, tôi tưởng như mình đứt từng khúc ruột". Tiếng nói của người thuyết minh chuyển từ địch hoạ sang thiên tai không phút ngập ngừng, nhằm gia cố cho cây cầu một phẩm chất vững chãi, kiên trung. Vì vẫn là nó giữa mênh mông nước lũ cuốn chìm bao màu xanh, bao làng mạc trù phú, "chiếc cầu như chiếc võng đu đưa, nhưng vẫn dẻo dai, vững chắc".
3. "Bây giờ cầu Long Biên đã rút về vị trí khiêm nhường", câu văn nhắc lại đến lần thứ hai với giọng văn thật là tỉnh táo. Giống với nguy cơ lần thứ nhất khi "Ngang sông Hồng đã có cầu Thăng Long, cầu Chương Dương sừng sững". Và còn nhiều nguy cơ tiếp theo "Rồi sẽ còn có những chiếc cầu khác hiện đại hơn nữa vượt sông Hồng". Nhưng cụm từ ở đoạn mở đầu ví cầu Long Biên "như một nhân chứng sống động, đau thương và anh dũng" đã được tôn vinh lần thứ hai bằng cụm từ thay thế "tôi vẫn thường đưa những đoàn khách du lịch nước ngoài đến thăm cầu Long Biên". Đây là một thử nghiệm nhằm chứng minh cho sự vĩnh hằng của cầu Long Biên bằng cách biến đổi nội dung của lời thuyết minh có tính cách chủ quan sang sự đánh giá vô tư, khách quan của người ngoài cuộc. Sự kiểm chứng này đã được xác nhận hiển nhiên : "Họ trầm ngâm nện từng bước chân xuống mặt cầu. Họ đứng ở nhiều góc độ, ghi lại hình ảnh chiếc cầu lịch sử". Như thế là khoảng cách xa xôi giữa người Hà Nội và những du khách mới biết Hà Nội lần đầu đã rút ngắn lại đáng kể. Bởi vậy, câu kết bài viết là một dự cảm lạc quan, khi người thuyết minh vé cầu Long Biên biết rằng : bằng tình yêu cây cầu của mình, một cây cầu hữu nghị sẽ hiện ra, nó sẽ làm cho du khách "ngày càng xích lại gần với đất nước Việt Nam" trong thời kì lịch sử mới.
Từ khóa tìm kiếm
- văn lớp 2 tả con vẹt
- cam nhan ve cau long bien
- em hay nhập vai nhà báo thúy lan giới thiệu về cây cầu long biên nói riêng và hà nội nói chung cho du khách biết
- em là cầu long biên tả về cuộc đời mình