10/01/2018, 19:26
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ sau ngày 02 - 9 - 1945 đến trước ngày19 - 12 – 1945
- Tình hình nước ta sau cách mạng tháng tám năm 1945- Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính- Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản bảo vệ chính quyền cách mạng I. Tình hình nước ta sau cách mạng tháng tám năm 1945 1. Thuận lợi: - Nhân ...
- Tình hình nước ta sau cách mạng tháng tám năm 1945- Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính- Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản bảo vệ chính quyền cách mạng
I. Tình hình nước ta sau cách mạng tháng tám năm 1945
1. Thuận lợi:
- Nhân dân đã giành quyền làm chủ, bước đầu được hưởng tự do, nên rất phấn khởi, gắn bó với chế độ.
- Cách mạng nước ta có Đảng lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm, có lãnh tụ sáng suốt là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.
2. Khó khăn: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa ra đời đã phải đối mặt với nhiều khó khản thử thách.
* Về đối ngoại :
- Quân đội các nước Đồng minh, dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật, đã lũ lượt kéo vào nước ta.
+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc đóng ở Hà Nội và hầu hết các tỉnh. Chúng kéo theo bọn tay chân từ các tổ chức phản động như Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách).
+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân đội Anh tạo điều kiện cho quân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình đó bọn phản động ngóc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng.
* Về đối nội:
- Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố; lực lượng vũ trang còn non yếu.
- Nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Hậu quả nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Nạn lụt lớn, làm vỡ đê ở chín tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo dài. Nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp. Các cơ sở công nghiệp của ta chưa phục hồi sản xuất. Hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
- Về tài chính, ngân sách Nhà nước lúc này hầu như trống rỗng, chính quyền cách mạng lại chưa quản lí được Ngân hàng Đông Dương. Trong lúc đó, quân Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trương các loại tiền của Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.
- Về văn hoá, di sản văn hoá lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến đế lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số không biết chữ.
Nước ta đứng trước tình thế hiểm nghèo, khác nào “Ngàn cân treo sợi tóc”.
II. Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính
1. Xây dựng chính quyền cách mạng
- Ngày 08 - 9 - 1945, Chính phủ cách mạng lâm thời công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước.
- Ngày 06 - 01 - 1946, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu, bầu vào Quốc hội 333 đại biểu khắp Bắc - Trung - Nam, tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân.
- Ngày 02 - 3 - 1946, tại kì họp dầu tiên tại Hà Nội, Quốc hội thông qua danh sách Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 09 - 11 - 1946.
- Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam Giải phóng quân được chấn chỉnh và đổi thành Vệ quốc đoàn (9 - 1945). Ngày 22 - 5 - 1945, Vệ quốc đoàn được đổi thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Cuối năm 1945, lực lượng dân quân, tự vệ tăng lên hàng chục vạn người, có mặt hầu hết các thôn xã, đường phố, xí nghiệp trên khắp cả nước.
2. Giải quyết nạn đói
- Biện pháp cấp thời: Quyên góp, điều hoà thóc gạo giữa các địa phương, nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ gạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả nước “nhường cơm sẻ áo”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên khắp cả nước, nhân dân ta lập “Hủ gạo cứu đói” tổ chức “Ngày đồng tâm”, không dùng gạo, ngô, khoai, sắn... nấu rượu.
- Biện pháp lâu dài: tăng gia sản xuất là biện pháp hàng đầu và có tính chất lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “Tăng gia sản xuất ! Tăng sản xuất ngay! Tăng sản xuất nữa”.
Hưởng ứng lời kêu gọi Chủ tịch Hồ Chí Mình, phong trào thi đua tăng gia sản xuất dấy lên khắp cả nước. Dưới khẩu hiệu “Không một tấc đất bỏ hoang”.
Nhờ những biện pháp tích cực trên đây, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi một bước.
3. Giải quyết nạn dốt
- Ngày 08 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ, là cơ quan chuyên lo việc chống “giặc dốt”, và kêu gọi nhân dân trong cả nước tham gia phong trào xóa nạn mù chữ. Trong vòng một năm, từ ngày 08 - 9 - 1945 đến ngày 08 - 9 - 1946, trên toàn quốc đã tổ chức gần 76.000 lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người.
- Trường học các cấp phổ thông và đại học sớm được khai giảng nhằm đào tạo những công dân và cán bộ trung thành, có năng lực phụng sự tổ quốc.
- Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo tinh thần dân tộc - dân chủ.
4. Giải quyết khó khăn về tài chính
- Để khắc phục tình trạng trống rỗng về ngân sách, Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước. Hưởng ứng cuộc vận động xây dựng “Quỹ độc lập”, phong trào “Tuần lễ vàng” do Chính phủ phát động, nhân dân ta hăng hái đóng góp tiền, của, vàng, bạc ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc.
- Ngày 23 - 01 - 1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam và đến ngày 23 - 11 - 1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước thay cho tiền Đông Dương của Pháp trước đây.
III. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản bảo vệ chính quyền cách mạng
1. Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ
- Ngày 02 - 9 - 1945, trong khi nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào mừng “Ngày độc lập”, thực dân Pháp xả súng vào đám đông, làm 47 người chết và làm nhiều người bị thương.
- Đêm 22 rạng sáng 23 - 9 - 1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp cho quân đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
- Quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn cùng với quân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên chiến đấu chống xâm lược. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang của ta đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp, đánh kho tàng, phá nhà giam.
- Phối hợp với lực lượng vũ trang đánh địch, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đấu tranh triệt phá nguồn tiếp tế của địch, từ chối hợp tác với chúng, dựng chướng ngại vật và chiến lũy trên đường phố. Ngừng các hoạt động trong thành phố làm cho quân Pháp trong thành phố bị bao vây và luôn bị tiến công.
- Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh huy động lực lượng cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến. Hàng vạn thanh niên hăng hái gia nhập vào các đoàn quân “Nam tiến”. Nhân dân Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ còn thường xuyên tổ chức quyên góp tiền, gạo, áo quần, thuốc men... gửi ủng hộ nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.
2. Đấu tranh với quân Trung Hoa Dân quốc và bọn phản cách mạng ở miền Bắc
- Thực hiện sách lược hoà hoãn với quân Trung Hoa Dân quốc
+ Nhượng cho tay sai của Trung Hoa Đân quốc 70 ghế trong Quốc hội không bầu cử, 4 ghế Bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp.
+ Nhân nhượng cho Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi về kinh tế, như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải, cho phép dùng tiền Trung Quốc trên thị trường.
+ Trong lúc nhân nhượng cho Trung Hoa Dàn quốc, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán”, nhưng thực ra tạm thời rút vào hoạt động “bí mật”, tiếp tục lãnh đạo đất nước, lãnh đạo chính quyền cách mạng.
- Đối với tổ chức phản cách mạng, tay sai của Trung Hoa Dân quốc (Việt Quốc, Việt Cách).
+ Chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng, kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chúng.
+ Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật.
+ Chính phủ còn ban hành một sô” sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng.
Những biện pháp sách lược nhân nhượng trên đây đã hạn chế các hoạt động chống phá của Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của quần chúng.
3. Hoà hoãn với Pháp nhằm đẩy quân Trung Hoa Dân quốc ra khỏi nước ta
- Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp đề ra kế hoạch tiến quân ra Bắc nhằm thôn tính cả nước ta.
- Để thực hiện ý đồ trên, thực dân Pháp điều đình với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, kí Hiệp ước Hoa - Pháp (28 - 02 - 1946) với các điều khoản:
+ Trung Hoa Dân quốc được Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng lên Hoa Nam không phải đóng thuế.
+ Pháp được đưa quân ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
- Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai con đường: hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc hoà hoãn, nhân nhượng Pháp đẽ tránh tình trạng phải đối phó một lúc nhiều kẻ thù.
- Ngày 03 - 3 - 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh chủ trì, đã chọn giải pháp “hoà để tiến”.
- Chiều 06 - 3 - 1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kí với G.Xanhtơni - đại diện Chính phủ Pháp - bản Hiệp định Sơ bộ.
- Nội dung của Hiệp định:
+ Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng, và là thành viên Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
+ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thỏa thuận cho 15000 quân Pháp ra miền Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, số quân này sẽ đóng ở những địa điểm quy định và rút dần trong thời hạn 5 năm.
+ Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột ở miền Nam và giữ nguyên quân đội của mình tại vị trí cũ, tạo không khí thuận lợi để đi đến cuộc đàm phán chính thức bàn các vấn đề ngoại giao của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương, quyền lợi kinh tế và văn hoá của người Pháp ở Việt Nam.
Kí Hiệp định Sơ bộ 06 - 3 - 1946, tạm thời hoà hoãn với Pháp, ta tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc, đẩy được 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta, giành thêm thời gian hoà bình củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp về sau.
- Do ta đấu tranh kiên quyết, cuộc đàm phán chính thức giữa hai Chính phủ Việt Nam và Pháp đã được tổ chức tại Phôngtennơblô từ ngày 06 - 7 - 1946. Cuộc đàm phán thất bại. Trong lúc đó tại Đông Dương, quân Pháp tăng cường hoạt động khiêu khích. Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng, có nguy cơ nổ ra chiến tranh.
- Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang ở thăm nước Pháp với tư cách thượng khách, đã kí với Mutê - đại diện của Chính phủ Pháp tạm bản Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946, nhân nhượng Pháp một số quyền lợi kinh tế - văn hoá ở Việt Nam. Bản Tạm ước đã tạo điều kiện cho ta có thêm thời gian xây dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp lâu dài.
1. Thuận lợi:
- Nhân dân đã giành quyền làm chủ, bước đầu được hưởng tự do, nên rất phấn khởi, gắn bó với chế độ.
- Cách mạng nước ta có Đảng lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm, có lãnh tụ sáng suốt là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.
2. Khó khăn: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa ra đời đã phải đối mặt với nhiều khó khản thử thách.
* Về đối ngoại :
- Quân đội các nước Đồng minh, dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật, đã lũ lượt kéo vào nước ta.
+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc đóng ở Hà Nội và hầu hết các tỉnh. Chúng kéo theo bọn tay chân từ các tổ chức phản động như Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (Việt Cách).
+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân đội Anh tạo điều kiện cho quân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình đó bọn phản động ngóc đầu dậy, làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng.
* Về đối nội:
- Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố; lực lượng vũ trang còn non yếu.
- Nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Hậu quả nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Nạn lụt lớn, làm vỡ đê ở chín tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo dài. Nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp. Các cơ sở công nghiệp của ta chưa phục hồi sản xuất. Hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
- Về tài chính, ngân sách Nhà nước lúc này hầu như trống rỗng, chính quyền cách mạng lại chưa quản lí được Ngân hàng Đông Dương. Trong lúc đó, quân Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trương các loại tiền của Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.
- Về văn hoá, di sản văn hoá lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến đế lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số không biết chữ.
Nước ta đứng trước tình thế hiểm nghèo, khác nào “Ngàn cân treo sợi tóc”.
II. Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính
1. Xây dựng chính quyền cách mạng
- Ngày 08 - 9 - 1945, Chính phủ cách mạng lâm thời công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước.
- Ngày 06 - 01 - 1946, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu, bầu vào Quốc hội 333 đại biểu khắp Bắc - Trung - Nam, tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân.
- Ngày 02 - 3 - 1946, tại kì họp dầu tiên tại Hà Nội, Quốc hội thông qua danh sách Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 09 - 11 - 1946.
- Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam Giải phóng quân được chấn chỉnh và đổi thành Vệ quốc đoàn (9 - 1945). Ngày 22 - 5 - 1945, Vệ quốc đoàn được đổi thành Quân đội Quốc gia Việt Nam. Cuối năm 1945, lực lượng dân quân, tự vệ tăng lên hàng chục vạn người, có mặt hầu hết các thôn xã, đường phố, xí nghiệp trên khắp cả nước.
2. Giải quyết nạn đói
- Biện pháp cấp thời: Quyên góp, điều hoà thóc gạo giữa các địa phương, nghiêm trị những kẻ đầu cơ tích trữ gạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả nước “nhường cơm sẻ áo”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên khắp cả nước, nhân dân ta lập “Hủ gạo cứu đói” tổ chức “Ngày đồng tâm”, không dùng gạo, ngô, khoai, sắn... nấu rượu.
- Biện pháp lâu dài: tăng gia sản xuất là biện pháp hàng đầu và có tính chất lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “Tăng gia sản xuất ! Tăng sản xuất ngay! Tăng sản xuất nữa”.
Hưởng ứng lời kêu gọi Chủ tịch Hồ Chí Mình, phong trào thi đua tăng gia sản xuất dấy lên khắp cả nước. Dưới khẩu hiệu “Không một tấc đất bỏ hoang”.
Nhờ những biện pháp tích cực trên đây, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi một bước.
3. Giải quyết nạn dốt
- Ngày 08 - 9 - 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ, là cơ quan chuyên lo việc chống “giặc dốt”, và kêu gọi nhân dân trong cả nước tham gia phong trào xóa nạn mù chữ. Trong vòng một năm, từ ngày 08 - 9 - 1945 đến ngày 08 - 9 - 1946, trên toàn quốc đã tổ chức gần 76.000 lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người.
- Trường học các cấp phổ thông và đại học sớm được khai giảng nhằm đào tạo những công dân và cán bộ trung thành, có năng lực phụng sự tổ quốc.
- Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo tinh thần dân tộc - dân chủ.
4. Giải quyết khó khăn về tài chính
- Để khắc phục tình trạng trống rỗng về ngân sách, Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước. Hưởng ứng cuộc vận động xây dựng “Quỹ độc lập”, phong trào “Tuần lễ vàng” do Chính phủ phát động, nhân dân ta hăng hái đóng góp tiền, của, vàng, bạc ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc.
- Ngày 23 - 01 - 1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam và đến ngày 23 - 11 - 1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước thay cho tiền Đông Dương của Pháp trước đây.
III. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phản bảo vệ chính quyền cách mạng
1. Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ
- Ngày 02 - 9 - 1945, trong khi nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào mừng “Ngày độc lập”, thực dân Pháp xả súng vào đám đông, làm 47 người chết và làm nhiều người bị thương.
- Đêm 22 rạng sáng 23 - 9 - 1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp cho quân đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
- Quân dân Sài Gòn - Chợ Lớn cùng với quân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên chiến đấu chống xâm lược. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang của ta đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp, đánh kho tàng, phá nhà giam.
- Phối hợp với lực lượng vũ trang đánh địch, nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn đấu tranh triệt phá nguồn tiếp tế của địch, từ chối hợp tác với chúng, dựng chướng ngại vật và chiến lũy trên đường phố. Ngừng các hoạt động trong thành phố làm cho quân Pháp trong thành phố bị bao vây và luôn bị tiến công.
- Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh huy động lực lượng cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến. Hàng vạn thanh niên hăng hái gia nhập vào các đoàn quân “Nam tiến”. Nhân dân Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ còn thường xuyên tổ chức quyên góp tiền, gạo, áo quần, thuốc men... gửi ủng hộ nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.
2. Đấu tranh với quân Trung Hoa Dân quốc và bọn phản cách mạng ở miền Bắc
- Thực hiện sách lược hoà hoãn với quân Trung Hoa Dân quốc
+ Nhượng cho tay sai của Trung Hoa Đân quốc 70 ghế trong Quốc hội không bầu cử, 4 ghế Bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp.
+ Nhân nhượng cho Trung Hoa Dân quốc một số quyền lợi về kinh tế, như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải, cho phép dùng tiền Trung Quốc trên thị trường.
+ Trong lúc nhân nhượng cho Trung Hoa Dàn quốc, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố “tự giải tán”, nhưng thực ra tạm thời rút vào hoạt động “bí mật”, tiếp tục lãnh đạo đất nước, lãnh đạo chính quyền cách mạng.
- Đối với tổ chức phản cách mạng, tay sai của Trung Hoa Dân quốc (Việt Quốc, Việt Cách).
+ Chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng, kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chúng.
+ Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật.
+ Chính phủ còn ban hành một sô” sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng.
Những biện pháp sách lược nhân nhượng trên đây đã hạn chế các hoạt động chống phá của Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của quần chúng.
3. Hoà hoãn với Pháp nhằm đẩy quân Trung Hoa Dân quốc ra khỏi nước ta
- Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp đề ra kế hoạch tiến quân ra Bắc nhằm thôn tính cả nước ta.
- Để thực hiện ý đồ trên, thực dân Pháp điều đình với Chính phủ Trung Hoa Dân quốc, kí Hiệp ước Hoa - Pháp (28 - 02 - 1946) với các điều khoản:
+ Trung Hoa Dân quốc được Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng lên Hoa Nam không phải đóng thuế.
+ Pháp được đưa quân ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
- Hiệp ước Hoa - Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai con đường: hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc hoà hoãn, nhân nhượng Pháp đẽ tránh tình trạng phải đối phó một lúc nhiều kẻ thù.
- Ngày 03 - 3 - 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh chủ trì, đã chọn giải pháp “hoà để tiến”.
- Chiều 06 - 3 - 1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kí với G.Xanhtơni - đại diện Chính phủ Pháp - bản Hiệp định Sơ bộ.
- Nội dung của Hiệp định:
+ Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng, và là thành viên Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
+ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thỏa thuận cho 15000 quân Pháp ra miền Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, số quân này sẽ đóng ở những địa điểm quy định và rút dần trong thời hạn 5 năm.
+ Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột ở miền Nam và giữ nguyên quân đội của mình tại vị trí cũ, tạo không khí thuận lợi để đi đến cuộc đàm phán chính thức bàn các vấn đề ngoại giao của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương, quyền lợi kinh tế và văn hoá của người Pháp ở Việt Nam.
Kí Hiệp định Sơ bộ 06 - 3 - 1946, tạm thời hoà hoãn với Pháp, ta tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc, đẩy được 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta, giành thêm thời gian hoà bình củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp về sau.
- Do ta đấu tranh kiên quyết, cuộc đàm phán chính thức giữa hai Chính phủ Việt Nam và Pháp đã được tổ chức tại Phôngtennơblô từ ngày 06 - 7 - 1946. Cuộc đàm phán thất bại. Trong lúc đó tại Đông Dương, quân Pháp tăng cường hoạt động khiêu khích. Quan hệ Việt - Pháp ngày càng căng thẳng, có nguy cơ nổ ra chiến tranh.
- Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang ở thăm nước Pháp với tư cách thượng khách, đã kí với Mutê - đại diện của Chính phủ Pháp tạm bản Tạm ước ngày 14 - 9 - 1946, nhân nhượng Pháp một số quyền lợi kinh tế - văn hoá ở Việt Nam. Bản Tạm ước đã tạo điều kiện cho ta có thêm thời gian xây dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp lâu dài.