24/05/2018, 21:30

Nội dung cuả vốn đầu tư phát triển

Đứng trên góc độ vi mô của nền kinh tế, chúng ta phân chia nguồn vốn trong nước theo các nguồn hình thành sau: Đứng trên góc độ vĩ mô, chúng ta lại chia nguồn vốn trong nước theo các nguồn sau: ...

Đứng trên góc độ vi mô của nền kinh tế, chúng ta phân chia nguồn vốn trong nước theo các nguồn hình thành sau:

Đứng trên góc độ vĩ mô, chúng ta lại chia nguồn vốn trong nước theo các nguồn sau:

Trong bài này chúng ta sẽ nhất quán phân tích nguồn vốn trong nước trên quan điểm kinh tế vĩ mô.

Tiết kiệm của Chính phủ (nguồn vốn Nhà nước)

Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của Ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước.

Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước

Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.

Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc nhà nước quản lý…). Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể, tăng từ mức 2,3% GDP năm 1991 lên 6,1% GDP năm 1996.

Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước

Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991-2000, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chính phủ.

Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.

Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.

Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước

Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Theo báo cáo tổng kết công tác tổng kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị tài sản doanh nghiệp nhà nước tại thời điểm 1/1/2000, tổng nguồn vốn chủ sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước là 173.857 tỷ đồng. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của các doang nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần.

DNNN vẫn đóng góp một lượng lớn vào GDP của nền kinh tế, nộp ngân sách chiếm 40% tổng thu của ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho trên 1,9 triệu người. Một số sản phẩm của doanh nghiệp nhà nước có đóng góp chủ yếu vào cân bằng hàng hoá của nền kinh tế như: xi măng, dầu khí, bưu chính viễn thông…

Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội.

Tiết kiệm của doanh nghiệp

Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các HTX) đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích luỹ của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội.

Thực hiện chính sách đổi mới, cơ chế mở cửa nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoạt động đầu tư từ khu vực này gia tăng mạnh mẽ. Hàng chục ngàn doanh nghiệp được thành lập mới với số vốn hàng chục tỉ đồng (chỉ riêng 8 tháng đầu năm 2001, có khoảng 11 ngàn doanh nghiệp mới được thành lập với số vốn 13.000 tỉ đồng). Nhà nước cũng có những hỗ trợ thiết thực nhằm tăng cường thêm sức mạnh cho các doanh nghiệp tư nhân. Các cuộc hội thảo liên tiếp được mở ra, mục đích là lắng nghe, tiếp nhận ý kiến của các doanh nghiệp, từ đó tiến hành điều chỉnh luật cũng như ban hành các chính sách mới tạo diều kiện hơn đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh khi hội nhập quốc tế và khu vực. Đặc biệt là với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, các dự án hỗ trợ về luật, nghiệp vụ, việc thành lập các tổ chức, hiệp hội theo ngành nghề, lĩnh vực đang là những hoạt động có ý nghĩa được Đảng và Nhà nước quan tâm kịp thời, đúng mức. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp tư nhân đã có thêm những sức mạnh mới, Việt Nam đã được bạn bè trên thế giới biết đến qua nhiều thương hiệu nổi tiếng, điều này càng khẳng định vai trò không nhỏ của doanh nghiệp tư nhân cũng như số lượng vốn huy động được từ khu vực này. Dự báo trong thời gian tới, các doanh nghiệp sẽ còn tăng thêm cả về số lượng, quy mô vốn cũng như chất lượng hoạt động. Đây sẽ là câu hỏi đặt ra cho các nhà kinh tế trong việc quản lý hoạt động và cũng sẽ là bài toán có nhiều lời giải cho việc huy động vốn đầu tư từ khu vực được đánh giá là còn chứa ẩn nhiều tiềm năng này.

Tiết kiệm của khu vực dân cư

Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích luỹ truyền thống, nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt… Nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Thực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỉ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư.

Với khoảng 15 triệu hộ gia đình đóng góp khoảng 1/3 GDP, trong giai đoạn 1996-2000 tiết kiệm của khu vực dân cư chiếm khoảng 15% GDP. Nhiều hộ gia đình đã thực sự trở thành các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số các nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế.

Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào:

  • Trình độ phát triển của đất nước (ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp).
  • Tập quán tiêu dùng của dân cư.
  • Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội.

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

Đây là vốn của các doanh nghiệp và các nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi số vốn bỏ ra. Vốn nay thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế-xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, với vốn đầu tư trực tiếp, nước nhận đầu tư không phải lo trả nợ, lại có thể dễ dàng có được công nghệ (do nguời đầu tư đem vào góp vốn và sử dụng), trong đó có cả công nghệ bị cấm xuất theo con đường ngoại thương, vì lý do cạnh tranh hay cấm vận nước nhận đầu tư; học tập được kinh nghiệm quản lý, tác phong làm việc theo lối công nghiệp của nước ngoài, gián tiếp có chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhanh chóng được thế giới biết đến thông qua quan hệ làm ăn với nhà đầu tư. Nước nhận đầu tư trực tiếp phải chia sẻ lợi ích kinh tế do đầu tư đem lại với người đầu tư theo mức độ góp vốn của họ. Vì vậy có quan điểm cho rằng đầu tư trực tiêp sẽ làm cạn kiệt tài nguyên của nước nhận đầu tư.

Tùy theo điều kiện cụ thể của mình các nước ASEAN và NICs Đông Á, có nước dựa chủ yếu vào vốn đầu tư gián tiếp (Hàn Quốc, Philipin, Thái Lan, Inđônêsia, Malaixia), có nhiều nước lại chủ trọng vốn đầu tư trực tiếp (Singapo, Hông Kông).

Để thu hút nhanh các nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, các nước ASEAN và NICs Đông Á đã tạo môi trường thuận lợi cho nàh đầu tư như cung cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ, có luật đầu tư ưu đãi, luật các khu chế xuất. Hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở các nước ASEAN là kỹ thuật cao, ở các nước NICs là phục vụ xuất khẩu.

Vốn đầu tư gián tiếp

Đây là nguồn vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức khác nhau là viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài và lãi suất thấp, kể cả vay theo hình thức thông thường. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp tồn tại dưới loại hình ODA-Viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn, cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Vai trò đầu tư gián tiếp được thể hiện ở những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của Hàn Quốc, Philipin những năm sau giải phóng và đối với Việt Nam những năm chống Mỹ cứu nước. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với sự trả giá về chính trị và tình trạng nợ chồng chất nếu không sử dụng hiệu quả vốn vay và thực hiện nghiêm ngặt chế độ trả nợ vay. Các nước Đông Nam Á và NICs Đông Á đã thực hiện giải pháp vay dài hạn, vay ngán hạn rất hạn chế và đặc biệt không vay thương mại. Vay dài hạn lãi suất thấp, việc trả nợ không khó khăn vì có thời gian hoạt động đủ để thu hồi vốn.

Thực chất nguồn vốn ODA đã được phân bổ theo các nguồn khác như vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển… Tuy nhiên, ở đề án này đề cập đến với vai trò như là một nguồn vốn nước ngoài, không nằm trong cơ cấu của tổng vốn đầu tư toàn xã hội, chỉ đưa ra để so sánh và đánh giá nhằm tăng cường khả năng thu hút nguồn vốn này ngày càng lớn hơn.

Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại

Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường là tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.

Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thụ trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. Đối với Việt Nam, việc tiếp cận đối với nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế.

Vốn đầu tư gián tiếp của tư nhân nước ngoài thông qua thị trường vốn quốc tế

Với xu hướng toàn cầu hoá, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy, mặc dù trong vòng 30 năm qua tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác. Tính từ đầu những năm 70 đến cuối những năm 90 của thế kỷ XX, vốn đầu tư trực tiếp cảu các nước thuộc nhóm G7 chỉ tăng 30 lần, trong khi đầu tư chứng khoán tăng khoảng 200 lần. Riêng trong thập kỷ 90, khối lượng cổ phiếu mà các nước công nghiệp phát triển đã phát hành trên thị trường vốn quốc tế đã tăng 6 lần, đạt khoảng 4 tỷ USD.

Ngay tại nhiều nước đang phát triển, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán cũng gia tăng mạnh mẽ. Mặc dù vào nửa cuối những năm 90, có sự xuất hiện của một số cuộc khủng hoảng tài chính nhưng đến cuối năm 1999 khối lượng giao dịch chứng khoán tại các thị trường mới nổi vẫn rất đáng kể. Riêng năm 1999, dòng vốn đầu tư dưới dạng cổ phiếu của Châu Á đã tăng gấp 3 lần năm 1998, đạt 15 tỷ USD.

Đối với Việt Nam, để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững, nhằm muc tiêu Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá. Nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn vốn huy dộng thông qua thị trường vốn cũng được Chính phủ quan tâm. Các dề án phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty ra nước ngoài cũng đã được xây dựng và xem xét. Tuy nhiên, đây là một hình thức huy động vốn rất mới mẻ và còn phức tạp đối với Việt Nam.

Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hình thức huy động vốn này có những ưu điểm và nhược điểm sau:

Về ưu điểm:

  • Có thể huy động vốn với số lượng lớn trong thời gian dài đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế mà không bị ràng buộc bởi các điều kiện về tín dụng. Bên cho vay khó sử dụng quan hệ cho vay để gây sức ép với nước sử dụng trong các quan hệ khác.
  • Tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp cận với thị trường vốn quốc tế. Với việc trực tiếp tham gia thị trường vốn quốc tế, đây sẽ là cơ hội tôt để thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển trong tương lai.
  • Khả năng thanh toán cao do có thể mua bán, trao đổi trên thị trường thứ cấp, chính vì vậy hình thức này tương đối hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Lý do này cho phép người phát hành có thể có được mức lãi suất ưu đãi hơn so với các hình thức vay nợ khác.
  • Đối với hình thức huy dộng này, người đi vay có thể tăng thêm tính hấp dẫn bằng cách đưa ra một số yếu tố kích thích như: cho phép chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu hoặc nếu mua đợt này sẽ được ưu tiên mua trong những đợt phát hành sau. Với những yếu tố kích thích như trên thì có thể khuyến khích nhiều người mua trái phiếu hơn.

Tuy nhiên, bên cạnh đó thì hình thức phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế vẫn còn một số trở ngại đối với Việt Nam. Đó cũng là nhược điểm hay hạn chế của biện pháp huy động vốn này.

  • Hệ số tín nhiệm của Việt Nam rất thấp, thậm chí Việt Nam chưa được các tổ chức quốc tế xếp hạng độ tín nhiệm. Chính vì vậy, nếu phát hành thì trái phiếu của Việt Nam sẽ phải chịu lãi suất ở mức cao.
  • Việt Nam vẫn còn quá ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, so với một số hình thức huy động vốn khác thì thời gian chuẩn bị vẫn còn tương đối dài.

Bởi vậy để phát hành trái phiếu ra thị trường vốn quốc tế, Việt Nam phải nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng, lựa chọn cẩn thận hình thức trái phiếu phát hành, thời gian đáo hạn, thị trường phát hành và nhà bao tiêu phù hợp với điều kiện của bên Việt Nam. Hơn nữa, cũng cần cân nhắc thận trọng giữa việc huy động vốn qua phát hành trái phiếu với các hình thức huy động vốn khác, như đầu tư trực tiếp và vay nợ qua hệ thống ngân hàng. Ngoài ra, bên cạnh việc xây dựng dự án cho việc phát hành trái phiếu, Việt Nam cũng cần xây dựng một kế hoạch chi tiết cho việc sử dụng vốn có hiệu quả.

0