24/05/2018, 21:40

Những lý do về phân bổ danh mục vốn đầu tư

Như chúng ta đã chỉ ra ,lượng giao dịch không thể giải thích một cách đầy đủ những biến động trong lượng tiền. Thuyết phân bổ danh mục vốn đầu tư đưa ra một đầu mối giải thích những ảnh hưởng khác đến cầu tiền tệ. Chúng ta có thể áp dụng thuyết phân bổ danh ...

Như chúng ta đã chỉ ra ,lượng giao dịch không thể giải thích một cách đầy đủ những biến động trong lượng tiền. Thuyết phân bổ danh mục vốn đầu tư đưa ra một đầu mối giải thích những ảnh hưởng khác đến cầu tiền tệ. Chúng ta có thể áp dụng thuyết phân bổ danh mục vốn đầu tư cho cầu tiền tệ bằng cách phân tích mỗi yếu tố của cầu tài sản

Lượng tiền thực tế dưới dạng tiền mặt và gửi Séc là một ví dụ của tàI sản cần thiết. Nếu hộ gia đình và doanh nghiệp với thu nhập cao giầu có hơn sẽ không duy trì cùng một tỷ lệ tài sản của họ dạng tiền mặt mà lời lãi bằng không hay lãi thấp như những hộ gia đình và hãng thu nhập thấp.Ví dụ, những cá nhân với thu nhập cao có thểduy trì những tài sản sinh lợi cao mà có thể chuyển nhượng dễ dàng thành tiền gửi Séc , các hãng có thể làm tương tự như vậy. Thêm vào đó, những doanh nghiệp có thể có một giới hạn tín dụng với những ngân hàng , mà cho phép họ tiến hành những giao dịch với lượng tiền mặt và số dư tiền gửi Séc thấp . Những hộ gia đình thu nhập cao có thể dùng thẻ tín dụng của ngân hàng. Cầu lương tiền thực tế tăng với thu nhập thực tế nhưng với tỉ lệ nhỏ hơn.

Khi tính toán thu nhập trên tài sản tiền tệ những hộ gia đình và nhà kinh doanh khong nhữnh tính đén số lẫi trả trên số dư tiền gửi mà còn phảI tính đặc tính thuận tiện của đồng tiền .Đây là số thu nhạp mà họ săn dàng hy sinh đổi lấy thu nhập có rỉu ro thấp ,có chi phí giao dịch và thông tin thấp. Nếu không có thay đổi khác , một sự tăng lãi suất tiền tệ hoặc trong sự thuận tiện tự nhiên của đồng tiền sẽ khiến những hộ gia đình và nhà doanh nghiệp tăng lượng tiền tệ của họ và tăng lượng cầu tiền.

Một sự giảm trong lãi suất tiền tệ hoặc trong sự thuận tiện tự nhiên sẽ khiến những hộ gia đình và doanh nghiệp giảm số dư tiền tệ của họ và lượng cầu tiền. Theo cách đó, những hộ gia đình và doanh nghiệp so sánh lợi tức mong đợi trên tiền (từ lợi nhuận và sinh lợi tự nhiên) trong việc quyết định giữ bao nhiêu tiền.

Khi phân bổ bao nhiêu tài sản của họ để nắm giữ dạng tiền, những cá nhân và hãng cũng cân nhắc rủi ro,tính lỏng và thông tin về thu nhập của việc nắm giữ tiền. Nếu thu nhập trên tài sản lựa chọn (thương phiếu trái phiếu hoặc cổ phiếu) có nhiều nguy hiểm ,những người tiết kiệm có thể chuyển sang giữ tiền của họ, làm tăng cầu tiền tệ. Những cải cách cho phép dễ dàng chuyển vốn từ dạng ít lỏng sang dạng có tính lỏng cao như từ trái phiếu hoặc cổ phiếu sang dạng một tài khoản Séc ,hoặc từ cổ phần góp sang tín dụng sẽ làm vốn có về tính lỏng của tiền. Các tài sản càng trở nên lỏng nhiều hơn thì càng có nhiều người tiết kiệm chú tâm đến thu nhập về lãi suất tiền tệ.Cuối cùng một số cá nhân đặt tin tưởng vào giá trị cao của việc giữ tiền ,bởi vì nó mang lại cho họ sự kín đáo. Điều này liên quan đến ma tuý, trốn thuế và các hoạt động phi pháp khác có thể biện hộ cho giá trị của đồng tiền kiếm được. Song cầu tiền có thể bị ảnh hưởng của nhưng thay đổi trong số lượng của hoạt động phi pháp hoặc thay đổi trong luật thuế khóa

0