Nguyên tắc của chuẩn đoán EEG
Như thảo luận trong Chương 7, không có giải pháp duy nhất cho vấn đề nghịch đảo.Từ thực hành lâm sàng, có thể thực hiện chính xác chẩn đoán ECG trong một số bệnh và để ước tính các bệnh khác với một xác suất có thể chấp nhận được. Làm thế nào ...
Như thảo luận trong Chương 7, không có giải pháp duy nhất cho vấn đề nghịch đảo.Từ thực hành lâm sàng, có thể thực hiện chính xác chẩn đoán ECG trong một số bệnh và để ước tính các bệnh khác với một xác suất có thể chấp nhận được. Làm thế nào để c ó th ể giải thích sự khác biệt giữa lý thuyết và thực hành?
Như được nói trong chương 7,giải pháp ngược là không thể nếu đo lường không được thực hiện trong nguồn đo và nếu không bổ xung thông tin có sẵn về tình chất của nguồn.Hiện nay, tuy nhiên, có rất nhiều kiến thức về điện sinh lí trạng thái của tim Đi ều n ày h ạn ch ế m ức đ ộ t ự do c ủa ngu ồn v à l àm gi ảm m ức đ ộ ch ắc ch ắn trong vi ệc đ ưa ra ch ẩn đo án.Sau đây là những ví dụ về những khó khăn hữu ích:
1.Kích cỡ , vị trí, định hướng của tim được biết nhiều và sự biến đổi của nó là có giới hạn. 2.Các xung động của từng tế bào cơ riêng biệt có thể được làm xấp xỉ như chỉ có hai trạng thái của điện sinh lí: sự t ái phân cực v à sự khử ph ân cực. 3. Mỗi t ế bào cơ biểu diễn một dạng vận động riêng ; khử phân cực sau đó là tái phân cực sau khoảng 0.2-0.4 giây. 4.Tâm nhĩ v à tâm thất tạm thời tách rời khu vực kích thích 5. Vận tốc lan truyền của bề mặt kích thích trong phần thay đổi của cơ tim được biết. 6.Hệ thống dẫn có ảnh hưởng chủ yếu trong khởi đầu của kích thích bề mặt. 7.Mối quan hệ giữa khả năng chịu tải của cơ và sự nở cơ được làm rõ 8.Có một số giới hạn các nguyên nhân gây ra sự quá tải của cơ. 9.Hiệu ứng điện sinh lí của chứng thiếu máu cục bộ trên cơ tim đã được biết. 10.Vị trí thiếu máu cục bộ hay nhồi máu được quản lí bởi các giải phẫu động mạch vành. 11.Có một số giới hạn các dị tật bẩm sinh về tim.
Những hạn chế về giải phẫu và sinh lí này hạn chế mức độ tự do của giải pháp ngược và thường làm cho nó thu được các giải pháp. Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp tim cần phải được chẩn đoán chính xác hơn. việc chẩn đoán thường phải được xác nhận hoặc được làm hoàn toàn bằng phương pháp chẩn đoán khác như: thính chẩn, tia X, chụp X quang mạch máu,tạo ảnh đồ hoạ tim vô tuyến,hoá học lâm sàng,siêu âm,v.v..
Những thảo luận về chẩn đoán ECG được đưa ra dựa trên 3 nguyên tắc sau đây:
Đầu tiên, sự lan truyền trước quá trình hoạt hoá do đặc điểm của vectơ tổng hợp.Tín hiệu này có thể được phát hiện và dự kiến thông qua các vectơ dẫn theo phương trình 11.16 và hình 11.6 trong chương 11
Khi các hoạt động điện tử của tim được coi là một vectơ, điều đầu tiên là dễ dàng hơn để kiểm tra các đường dẫn(quỹ đạo) của đầu vectơ(vectơ điện tim).Sau đó, tín hiệu trong 12 đạo trình ECG có thể được coi là dự đoán của các vectơ điện tim trên các vectơ dẫn như là 1 chức năng của thời gian ( nhân với giá trị tuyệt đối của vectơ dẫn). Thứ hai,sự nhạy cảm của các đạo trình có thể được xem xét phân phối theo hướng dẫn lí thuyết của các đạo trình.Trong trường hợp này sự lan truyền trước quá trình hoạt hoá góp phần tín hiệu ECG của các đạo trình theo phương trình 11.30, là:
Trong trình bày này các lưỡng cực nguồn không được giảm theo một lưỡng cực tổng hợp đơn, nhưng được coi như nơi phân phối.Hơn nữa , những thể tích dẫn không đồng nhất cũng được tính đến. Thứ ba, định lí góc khối cung cấp đáng kể cho sự hiểu biết quá trình hình thành của các tín hiệu ECG, đặc biệt trong chẩn đoán nhồi máu cơ tim( xem phương trình 11.7)
Đến phương trình 11.7, một trong những giả định cho 2 lớp nguồn sẽ được thống nhất, nhưng sự không đồng nhất được tính đến vào nơi cung cấp chúng.Tuy nhiên, thể tích dẫn là giả định là vô cùng lớn và đẳng hướng. Trong chương này các vấn đề tiếp theo của chẩn đoán ECG được thảo luận. Điều này dẫn tới những giải pháp của vấn đề ngược thông qua các các phương pháp tiếp cận kinh nghiệm như đã đề cập trong phần 7.5.4.Các phương pháp tiếp cận kinh nghiệm có thể chấp nhận trong trường hợp này,vì mục đích chương này là để được minh hoạ mà thôi.