Nguyên lý và sự cần thiết phát triển và bảo toàn vốn
0 +Khái niệm: Bảo toàn và phát triển vốn Sản xất kinh doanh dối với các doanh nghiệp quốc doanh là nội dung cốt lõi của quy chế giao vốn.Giao vốn tạo ra sự chủ động cho ...
+Khái niệm:
Bảo toàn và phát triển vốn Sản xất kinh doanh dối với các doanh nghiệp quốc doanh là nội dung cốt lõi của quy chế giao vốn.Giao vốn tạo ra sự chủ động cho doanh nghiệp trong quá trình sử dụng vốn và hoạt động sản xuất kinh doanh,đồng thời gắn trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc bảo toàn và phát triển vốn nhà nước giao.
Bảo toàn và phát triển vốn được hiểu:
Bảo toàn vốn ở các doanh nghiệp quốc doanh được thực hiện trong quá trình sử dụng vốn vào mục đích sản xuất-kinh doanh đảm bảo cho các loại tài sản khong bị hư hỏng trước thời hạn,không bị mất mát hoặc ăn chia vào vốn.Đồng thời người sử dụng vốn phải thường xuyên duy trì được giá trị đồng vốn củ mình,thể hiện bằng năng lực sản xuất của TSCĐ, khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự chữ và tài sản lưu động nói chung,duy trì khả năng thanh toán của xí nghiệp.
Sự cần thiết của chế độ bảo toàn và phát triển vốn:
Trước hết xuất phát từ đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,tài chính đối với các doanh nghiệp quốc doanh.Chuyển sang nền kinh tế thị trường,các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động theo phương thức hạch toán kinh doanh,nhà nước không tiếp tục bao cấp về vốn cho các xí nghiệp như trước đây.Để duy trì và phát triển sản xất kinh doanh trong các doanh nghiệp phải bảo toàn ,giữ gìn số vốn được nhà nước đầu tư,tức là kinh doanh ít nhất phải đảm bảo hoà vốn,bù đắp được số vốn bỏ ra để sản xuất giản đơn.
Thực tiễn Bảo toàn và phát triển vốn :
Xuất phát từ điều kiện thực tiễn của nền kinh tế còn lạm phát,giá cả biến động lớn,sức mua đồng tiền Việt Nam biến động nhiều và nhìn chung là suy giảm,nếu tiếp tục duy trì cơ chế giá thấp như nhiều năm trước đây,thì số vốn sản xuất kinh doanh của doanh nhiệp thể hiện bằng đồng tiền Việt Nam sẽ bị giảm dần giá trị trên thực tế,sức mua của vốn bị thu hẹp,hậu quả không tránh khỏi đấy là lãi giả còn lỗ thì thật,kinh tế quốc doanh ăn vào vốn.
Bảo toàn và phát triển vốn cố định.
Trong quá trình sử dụng TSCĐ và sản xuất -kinh doanh ,doanh nghiệp phải quản lý trặt chẽ,không để bị mất mát TSCĐ ,thực hiện đúng quy chế sử dụng,bảo dưỡng ,sữa chữa,mua sắm nhằm bảo đảm cho TSCĐ không bị hư hỏng trước thời hạn ,duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của TSCĐ.
Doanh nghiệp được quyền chủ động đổi mới thay thế TSCĐ ,kể cả những tài sản chưa hết thời hạn khấu hao theo yêu cầu đổi mới kỷ thuật công nghệ,phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.Nhưng việc thay thế TSCĐ này phải được báo cáo với cơ quan cấp trên.
Số tiền nhượng bán ,thu hồi do thanh lý TSCĐ phải gửi vào ngân hàng đầu tư và phát triển và chỉ được sử dụng để tái đầu tư TSCĐ.
Các công trình đầu tư XDCB đình thi công thuộc nguồn vốn Ngân Sách Nhà Nước cấp hoặc vay nợ nhà nước thì xử lý theo quy định riêng đối với từng trường hợp cụ thể.
Trường hợp các doang nghiệp cần chuyển bán một phần tài sản,vật tư ứ đọng không cần dùng thuộc diện phải nộp NSNN ,thì phải báo cáo cơ quan tài chính cùng cơ quan chủ quản xem xét cùng quyết định bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp.
Nội dung cơ bản của bảo toàn và phát triển vốn cố định
Các doanh nghiệp phải xác định đúng nguyên giá TSCĐ để trên cơ sở đó tính đúng ,tính đủ khấu hao cơ bản,khấu hao sữa chữa lớn để tạo nguồn thay thế và duy trì năng lực sản xuất của TSCĐ,bảo toàn vốn cố định.
Hàng năm ,cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ công bố hệ số tính lại giá trị TSCĐ.
Ngoài việc bảo toàn vốn cố định trên cơ sở hệ số trượt giá,số phải bảo toàn về vốn cố định còn bao gồm cả số vốn ngân sách cấp thêm hoặc doanh nghiệp bổ sung trong kỳ.
Vốn cố định phải bảo toàn đến cuối kỳ của doanh nghiệp được xác định theo công thức :

Trong công thức trên:
Số vốn được giao đầu kỳ(hoặc số vốn phải bảo toàn đến đầu kỳ) là số vốn cố định được giao lần đầu (không bao gồm số dư khấu hao cơ bản để lại xí nghiệp) hoặc số vốn cố định là được điều chỉnh theo các hệ số phải bảo toàn đến đầu kỳ sau.
Khấu hao cơ bản trích trong kỳ chỉ bao gồm khấu hao cơ bản của những TSCĐ hiện có đến đầu kỳ(không bao gồm khấu hao cơ bản của những TSCĐ tăng trong kỳ)
Hệ số điều chỉnh giá trị TSCĐ do các cơ quan có thẩm quyền công bố áp dụng cho nghành kinh tế kỹ thuật và cho từng nguồn hình thành TSCĐ(nhập khẩu ,đầu tư,mua sắm trong nước)
Đối với vốn cố định tăng,giảm trong kỳ,hệ số điều chỉnh giá trị TSCĐ được xác định cho từng trường hợp cụ thể trên cơ sở giá cả thực tế của TSCĐ khi tăng,giảm và thời điểm giảm,tăng vốn trong kỳ.
Căn cứ vào kết quả xác định số vốn phải bảo toàn theo công thức nêu trên,các doanh nghiệp phải tiến hành điều chỉnh tăng giá trị TSCĐ và vốn cố định theo các hệ số điều chỉnh tương ứng với từng loại TSCĐ.
Phần chênh lệch thiếu hay số vốn cố định chưa bảo toàn đủ( số vốn cố định đã bảo toàn được phải nhỏ hơn số vốn cố định phải bảo toàn) Phải được sử lý bằng các nguồn sau đây:
Nếu vốn cố định không được bảo toàn do giá trị TSCĐ chưa được tính đủ thì doanh nghiệp phải điều chỉnh tăng giá trị TSCĐ và do đó nguồn trích khấu hao trong giá thành cũng tăng lên tương ứng.
Trường hợp TSCĐ mất mát,hư hỏng làm giảm vốn do trách nhiệm và sử lý theo pháp luật.Nếu do các nguyên nhân chủ quan khác thì sử dụng nguồn vốn tự bổ sung về đầu tư xây dựng cơ bản và quỹ phát triển sản xuất để bù đắp.
Trường hợp tổn thất TSCĐ do các nguyên nhân khách quan như thiên tai,dịch hoạ,rủi ro trong quá trình sản xuất,kinh doanh.
Ngoài trách nhiệm bảo toàn vốn ,các doanh nghiệp có trách nhiệm phát triển phát triển vốn cố định trên cơ sở quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại xí nghiệp và phần vốn khấu hao cơ bản để lại xí nghiệp để đầu tư XDCB cho xí nghiệp.
Chế độ bảo toàn và phát triển vốn lưu động
Bảo toàn vốn lưu động vè mặt già trị ,thực chất là giử được giá trị thực tế hay sức mua của vốn,thể hịên khả năng mua sắm vật tư cho khâu dự trữ và tài sản lưu động định mức nói chung,duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp.Trong quá trình sản suất kinh doanh các doanh nghiệp phải thường xuyên thực hiện và hạch toán đúng giá trị thực tế của vật tư ,hàng hoá theo mức diễn biến tăng giảm giá cả trên thị trường nhằm tính đúng,tính đủ chi phí vật tư vào giá thành sản phẩm,giá vốn hàng hoá và phí lưu thông để thực hiện bảo toàn vốn lưu động.
Nội dung cơ bản của chế độ bảo toàn và phát triển vốn lưu động:
Các doanh nghiệp phải tự bảo toàn vốn lưu động ngay trong quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở mức tăng ,giảm giá tài sản lưu động thực tế tồn kho của doanh nghiệp ở các thời điểm có thay đổi về giá.
Định kỳ tháng,quý ,năm các doanh nghiệp phải xác định các khoản chênh lệch giá tài sản lưu động thực tế tồn kho ở doanh nghiệp bao gồm các khâu:Vật tư dự trữ,bán thành phẩm,sản phẩm dỡ dang và thành phẩm để bổ sung vốn lưu động.
Tổng số chênh lệch giá(sau khi đã bù trừ giữa các khoản chênh lệch tăng và giảm) được hạch toán bổ sung các nguồn vốn lưu động ngân sách cấp và doanh nghiệp tự bổ sung.Việc phân định các khoản chênh lệch giá để bổ sung các nguồn vốn lưu động ngân sách cấp và xí nghiệp tự bổ sung vào doanh nghiệp được căn cứ vào tỷ trọng của từng nguồn trong tổng số vốn lưu động nhà nước giao cho doanh nghiệp.
Số vốn lưu động sau khi được điều chỉnh giá tài sản lưuđộng thực tế tồn và nghi tăng nguồn vốn lưu động ở thời điểm cuối nămlà số vốn thực tế đă bảo toàn được của doanh nghiệp.
Cơ quan quản lý cấp trên doanh nghiệp và cơ quan tài chỉnh phải xác định hệ số bảo toàn vốn lưu động hàng năm cho từng nghành , từng doanh nghiệp.Hệ số trượt giá bình quân của vốn lưu động được tính phù hợp với đặc điểm cơ cấu tài sản lưu động từng nghành,từng doanh nghiệp trên cơ sở mức tăng giảm giá thực tế cuối năm so với đầu năm của một số vật tư chủ yếu tính theo cơ cấu kế hoạch của từng doanh nghiệp.
Số phải bảo toàn hàng năm về vốn lưu động của doanh nghiệp được tính theo công thức sau:
Số vốn lưu động Số vốn đã được Hệ số trượt giá vốn
Phải bảo toàn = giao(hoặc phải × lưu động của doanh
đến cuối năm bảo toàn hàng nghiệp trong năm
báo cáo năm )
Trong công thức trên:
Số vốn đã được giao là số vốn lưu động giao lần đầu cho doanh nghiệp đã được xác định trong biên bản giao nhận vón; số vốn phải bảo toàn đến đầu năm là số vốn được giao nhận đã điều chỉnh theo hệ số bảo toàn vốn đén đầu năm sau.
Hệ số trượt giá vốn lưu động của doang nghiệp trong năm được xác định theo nguyên tắc đã nêu,do cơ quan chủ quản và cơ quan tài chính xác định cho doanh nghiệp.
Ngoài hệ số trượt giá,số phải bảo toàn về vốn lưu động của doanh nghiệp còn bao gồm cả số vốn ngân sách cấp thêm hoặc coi như ngân sách cấp,hoặc doanh nghiệp tự bổ sung trong năm.
Phần chênh lệch thiếu hay chưa bảo toàn đủ vốn lưu động đã bảo toàn được số vốn thấp hơn số vốn lưu động phải bảo toàn phải đựơc sử lý bằng các nguồn bù đắp sau đây:
Trường hợp không bảo toàn được vốn lưu động do không có vật tư dự trữ và do đó không có phần chênh lệch giá vào các thời điểm tăng giá thì doanh nghiệp có trách nhiệm tự bổ sung bằng nguồn quỹ khuyến khích phát triển sản suất của mình.
Nếu quỹ phát triển sản xuất không đủ nguồn thì cơ quan tài chính cùng với cơ quan quản lý cấp trên xem xét cho trích thêm vào giá thành khoản còn thiếu đó để đảm bảo mức vốn phải bảo toàn.Khoản trích thêm này đựoc tính trong giá thành để xác định lợi tức chịu thuế.
Trường hợp mất mát ,hư hỏng vật tư làm giảm vốn lưu động do trách nhiệm cá nhân,do các nguyên nhân chủ quan khác cũng như do các nguyên nhân khách quan thì doanh nghiệp phải sử lý như đối với bảo toàn vốn cố định.
Trường hợp ngược lại,do doanh ghiệp có nhiều vật tư dự trữ vào các thời điểm tăng giá,có thể số vốn lưu động thực tế bảo toàn được cao hơn số vốn phải bảo toàn thì doanh nghiệp không phải nộp tiền sử dụng vốn đối với số vốn lưu động ngân sách cấp dã bảo toàn cao hơn.
Ngoài việc bảo toàn vốn lưu động theo hệ số trượt giá các doanh nghiệp nhà nước phải có trách nhiệm phát triển vốn từ quỹ khuyến khích phát triển sản xuất trích từ lợi nhuận để lại.
Trách nhiệm thực hiện chế độ bảo toàn vốn.
Giám đốc và kế toán trưởng doanh nghiệp, Hội đồng quản trị doanh nghiệp chịu trách nhiệm trực tiếp trước Nhà nước về việc lập báo cáo kịp thời quyết toán tài chính theo định kỳ, trong đố xác định kết quả sản xuất kinh doanh và việc thực hiện chế độ bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp.
Mọi tổn thất, hao hụt vốn và không bảo toàn được vốn phát sinh trong nhiệm kỳ giám đốc nào thì giám đốc đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật cho đến khi xư lý xong.
Bộ tài chính cùng với bộ chủ quản, trên cơ sở tham khảo ý kiến của Uỷ ban vật giá Nhà nước và Tổng cục thống kê, xác định và công bố hệ số điều chỉnh giá trị TSCĐ vào các thời điểm 01/1 và 01/7 hàng năm, phù hợp với đặc điểm TSCĐ theo từng ngành kinh tế kỹ thuật.
Thủ trưởng cơ quan và cơ quan quản lý tài vụ doanh nghiệp quốc doanh của Bộ (sở) tài chính chịu trách nhiệm trực tiếp trước nhà nước về việc phê duyệt quyết toán hàng năm của doanh nghiệp, xử lý các trường hợp không bảo toàn được vốn theo đúng các quy định hiện hành đã nêu ở phần trên.
Kinh doanh là một hoạt động kiếm lời, lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để đạt tới lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản lý sản xuất- kinh doanh, trong đố quản lý và sử dụng vốn là một bộ phần rất quan trọng, cố ý nghĩa quyết định kết quả và hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Do vậy , khi đẫ chuyến sang hạch toán kinh doanh, được trao quyền chủ động trong việc sử dụng vốn, trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, các doanh nghiệp nhà nước phải quan tâm đúng mức đến hiệu quả sử dụng vốn. Muốn vậy các doanh nghiệp phải thường xuyên tự đánh giá mình về phương diện sử dụng vốn, qua đó, thấy được chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng khai thác các tiềm năng sẵn có, biết được mình đang ở cung đoạn nào trong quá trình phát triển ( thịnh vượng hay suy thoái), đang ở vị trí nào trong quá trình thi đua, cạnh tranh với các xí nghiệp khác…
Qua phân tích, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nhằm có biện pháp tăng cường quản lý, sử dụng tiết kiệm các yếu tố của sản xuất để đạt hiệu quả cao hơn.
Các cơ quan quản lý Nhà nước quản lý doanh nghiệp với tư cách chủ sở hữu cũng phải thường xuyên đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp quốc doanh nhằm có những biện pháp tác động, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy cao nhất những lợi thế, tiềm năng trong sản xuất kinh doanh hoặc có các biện pháp hữu hựu giúp doanh nghiệp trong những hoàn cảnh khó khăn.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp có thể sử dụng hệ thống các chỉ tiêu phân tích dưới đây.
Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất.
Chi tiêu hiệu quả sử dụng vốn phản ánh kết quả chung nhất của doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng các loại vốn sản xuất, thể hiện bởi quan hệ so sánh giữa kết quả sản xuất trong kỳ( doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thụ) và số vốn sản xuất bình quân.
Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn có thể tính theo các chỉ tiêu tổng hợp và chi tiết dưới đây:
+Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp, được tính theo công thức sau đây:

Trong đó: Hv- Hệ số hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn
D - Doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thu trong kỳ
V - Số dư bình quân toàn bộ vốn
+Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm vốn cố định (kể cả TSCĐ đầu tư bằng các nhuồn vốn khác, nhưng không tách TSCĐ không cần dùng, hoặc chưa dùng) và vốn lưu động thực tế sử dụng( không kể số vốn bị chiếm dụng), được tính như sau:
Trong đó: Hsx-Hệ quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh
D -Doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thu trong kỳ
Vsx-Số dư bình quân vốn sản xuất kinh doanh.
+Hiệu quả sử dụng vốn cố định được tính như sau:

Trong đó: Hvcđ- Hiệu quả sử dụng vốn cố định
D - Doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ
Vcđ - Số dư bình quân vốn cố định
+Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được tính như sau:

Trong đó: Hvlđ- Hệ số hiệu quả sử dụng vốn lưu động
D -Doanh thu hoặc sản lượng sản phẩm tiêu thu trong kỳ
Vlđ -Số dư bình quân vốn lưu động
Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn trên đây đều có ý nghĩa chung là một đồng vốn sản xuất của doanh nghiệp làm ra bao nhiêu đồng sản phẩm trong kỳ. Chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp càng cao. Đồng thời, để đạt hiệu quả sử dụng vốn càng cao thì doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ và sử dụng tiết kiệm vốn nhằm tối thiểu hoá số vốn sử dụng hoặc tối đa hoá kết quả sản xuất trong giới hạn về các nguồn vốn hiện có.
Bảng 2: Dưới đây là ví dụ về phân tích hiệu quả sử dụng vốn
SốTT | Chỉ Tiêu | NămTrước | NămNay | Mức chênhLệch | Tỷ lệ % |
1 | Doanh thu | 2100 | 2600 | +500 | +23,8 |
2 | Sốdư bình quân toàn bộ vốn thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp | 900 | 1200 | +300 | +33,33 |
3 | Số dư bình quân vốn SXKD | 800 | 1050 | +250 | +31,25 |
4 | Số dư bình quân vốn cố định | 300 | 450 | +150 | +50,00 |
5 | Số dư bình quân vốn lưu động | 500 | 600 | +100 | +20,00 |
6 | Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn | 2,33 | 2,16 | -0,17 | -7,29 |
7 | Hiệu quả sử dụng vốn SXKD | 2,62 | 2,47 | -0,15 | -5,72 |
8 | Hiệu quả sử dụng vốn cố định | 7,00 | 5,78 | -1,22 | -17,42 |
9 | Hiệu quả sử dụng vốn lưu động | 4,20 | 4,33 | +0,13 | +3,09 |
( Lấy từ giáo trình bảo toàn và phát triển vốn)
Số liệu về tính các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cho thấy tình hình quản lý và sử dụng vốn sản xuất- kinh doanh năm nay có phần sút kém so với năm trước. Hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn giảm(- 7,29%) , hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh giảm(-%,72%), hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm nhiều nhất (-17,42%). Riêng hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng(+3,09%). Mặc dù doanh thu của doanh nghiệp tăng khá lớn 500 triệu đồng (+23,80%) so với năm trước nhưng có thể do ảnh hưởng của biến động giá trị TSCĐ trong điều kiện bảo toàn vốn làm tổng số vốn sản xuất kinh doanh tăng lên, hiệu quả sử dụng vố giảm đi. Trong đó, tỉ trọng của vốn cố định trong tổng số vốn sản xuất - kinh doanh tăng lên so với năm trước làm cho hiệu quả sử dụng vốn cố định giảm nhiều hơn so với mức giảm hiệu quả sử dụng vốn sản xuất- kinh doanh.
Tỷ trọng vốn cố định trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh của năm trước là 37,5%(300:800) của năm nay là 42,85%(450:1050), như vạy tỷ trọng vốn cố định năm nay tăng 5,35%(42,85%-37,5%).
Đây là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ tổ chức ,quản lý sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Tốc độ lưu chuyển vốn của doanh nghiệp được thể hiện bởi hai chỉ tiêu: Số vòng quay vốn lưu động trong kỳ và số ngày luân chuyển củamột vòng quay vốn.
Số vòng quay vốn:
Là số lần luân chuyển vốn lưu động trong kỳ,được tính như sau:

Trong đó: C- Số vòng quay của vốn
D-Doanh thu trừ thuế doanh thu hoặc thuế tiêu thụ đặc biệt
Vlđ-Số dư bình quân vốn lưu động
Vốn lưu động bình quân tháng,quý,năm được tính như sau:
Trong đó: Vlđ1,Vlđ2,Vlđ3 là vốn lưu đọng bình quân tháng 1,2,3.
Số vòng quay vốn lưu động thể hiện vốn lưu động của doanh nghiệp đã chu chuyển được bao nhiêu lần trong kỳ.Chỉ tiêu này càng lớn,chứng tỏ vốn lưu động luân chuyển càng nhanh,hoạt động tài chính càng tốt,doanh nghiệp càng cần ít vốn và tỷ suất lợi nhuận càng cao.