25/05/2018, 14:07

Nguyễn Chí Thanh

1 tháng 1, 1914 - 6 tháng 7, 1967 (53 tuổi) Biệt danh Sáu Vi, Trường Sơn Quốc tịch Việt Nam Nơi sinh Quảng Điền, Thừa Thiên, Việt Nam Nơi mất Hà Nội, Việt Nam ...

1 tháng 1, 1914 - 6 tháng 7, 1967 (53 tuổi)

Biệt danh Sáu Vi, Trường Sơn

Quốc tịch Việt Nam

Nơi sinh Quảng Điền, Thừa Thiên, Việt Nam

Nơi mất Hà Nội, Việt Nam

Thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam

Năm tại ngũ 1950 - 1967

Cấp bậc Đại tướng

Chỉ huy Việt Minh

Quân Giải phóng Miền Nam

Quân đội nhân dân Việt Nam

Tham chiến Chiến dịch Điện Biên Phủ

Khen thưởng Huân chương Sao vàng (truy tặng)

Huân chương Hồ Chí Minh,

Huân chương Quân công hạng Nhất

Huân chương Chiến thắng hạng Nhất

...

Công việc khác Ủy viên Hội đồng Quốc phòng

Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương

Bí thư Trung ương Cục miền Nam

Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam

Đại tướng (1914 – 1967) là một tướng lĩnh chính trị của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông từng công tác ở nhiều lĩnh vực khác nhau và đều có khả năng phát triển lĩnh vực đó nên còn được gọi là "Vị tướng phong trào". Ông cũng là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh".

tên thật là Nguyễn Vịnh, quê làng Niêm Phò, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông sinh trưởng trong một gia đình trung nông, thuở nhỏ cũng được học hành. Năm 14 tuổi, thân phụ qua đời, gia đình nghèo, ông bỏ học, đi làm tá điền kiếm sống và nuôi gia đình.

Năm 1934, ông tham gia cách mạng trong phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lần lượt giữ các chức vụ: Bí thư chi bộ, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên.

Từ năm 1938 đến năm 1943, ông nhiều lần bị Pháp bắt giam ở nhà lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Đến khi Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) mới ra tù. Sau khi ra tù và trở lại hoạt động, ông được bầu làm Bí thư Khu ủy khu IV và được cử đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào (8-1945). Trong Đại hội Đảng ở Tân Trào, ông được đặt bí danh là và được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng, được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ, theo dõi và tổ chức giành chính quyền tại Trung Kỳ trong Cách mạng tháng 8.

Từ năm 1948 đến 1950, ông làm Bí thư Liên khu ủy IV.

Cuối năm 1950, làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), được cử vào Bộ Chính trị, Ủy viên Hội đồng Quốc phòng.

Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng.

Cuối năm 1960, ông được cử giữ chức Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương. Năm 1961, ông liên tục phát động các phong trào thi đua trong các hợp tác xã, giúp ổn định tình hình phát triển trong hoạt động sản xuất nông nghiệp miền Bắc.

Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân giải phóng miền Nam. Thời gian này ông lấy bí danh là Sáu Vi. Khi viết báo, ông thường lấy bút danh là Trường Sơn.

Do sức khỏe yếu, đầu năm 1967, ông được đưa trở về Hà Nội.

Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1967 tại Hà Nội do bệnh tim; đây cũng chính là ngày mà ông dự định trở lại miền Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng

Ông đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng: Huân chương Sao vàng (truy tặng), Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất và nhiều huân, huy chương khác.

Đường phố được mang tên tại Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội; Quận 5, Quận 10, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh; Quận Hải Châu, Thành phố Đà Nẵng; Thành phố Huế; Thành phố Đà Lạt, Tỉnh Lâm Đồng; Thành phố Hà Tĩnh, Tỉnh Hà Tĩnh; Thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Tỉnh Ninh Thuận

Phu nhân là bà Nguyễn Thị Cúc. Ông và bà Nguyễn Thị Cúc sinh được bốn người con. Con trai đầu lòng của họ tên là Trường Sơn (đã mất năm 1947). Người con thứ hai là bà Nguyễn Thanh Hà, nguyên Phó Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam. Người con thứ ba là trai tên Tí. Và cuối cùng là con trai út Nguyễn Chí Vịnh, hiện nay đang là Trung tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục 2.

0