24/05/2018, 19:59

Nguồn hình thành và cách phân chia vốn đầu tư phát triển

Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư .Đứng trên góc độ vĩ mô ,nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước va nguồn vốn nước ngoài . Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ phần tích lũy của nội bộ ...

Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư .Đứng trên góc độ vĩ mô ,nguồn hình thành vốn đầu tư phát triển bao gồm nguồn vốn trong nước va nguồn vốn nước ngoài .

Nguồn vốn đầu tư trong nước được hình thành từ phần tích lũy của nội bộ nền kinh tế .Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn nhà nước và nguồn vốn khu vực dân doanh:

Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước,nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước.Đầy là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quan trọng cho họat động đầu tư phát triển kinh tế Việt Nam thời gian qua.

Nguồn vốn ngân sách nhà nuớc Đây là nguồn đầu tư chủ yếu,quyết định sự phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội.Là nền tảng để thực hiện CNH-HĐH đất nước.Nhà nước của bất kỳ quốc gia nào cũng quan tâm đến hoạt động đầu tư này.Đặc biệt là ở các nước đang phát triển như nước ta là yếu tố vật chất có ỹ nghĩa quyết định để thực hiện tốt nhất các chủ trương,chính sách phát triển KTXH của đất nước.Ở VN đây là điều kiện vật chất để ổn định và củng cố chế độ chính trị ,nâng cao hiệu lực,hiệu quả quản lý nhà nước cũng như không ngừng cải thiện đời sống nhân dân.

Vốn ngân sách đầu tư hiện nay chia làm hai loại:

  • Vốn ngân sách TW dung để đầu tư xây dựng các dự án(trồng rừng đầu nguồn,rừng phòng hộ,các công trình chủ yếu của nền kinh tế…)
  • Vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các địa phương đầu tư vào những vấn đề quan trọng của địa phương.

Trong những năm gần đây,quy mo vốn đầu tư nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau.Trong những năm 2001-2004 đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chiếm khoảng 25%,công nghiệp 7,9,GTVT và bưu chính viễn thông28,7%.

Tuy nhiên nguồn vốn này có một số hạn chế như hiệu quả sử dụng thấp tỷ lệ thất thoát cao,vốn đầu tư thường giàn trải,không trọng tâm trọng điểm,hệ thống các cơ quan quản lý vốn ngân sách chồng chéo,chức nang không rõ giữa quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh.Do vậy chúng ta cần có một số giải pháp như làm thế nào để tăng nền kinh tế cao và liên tục,tận thu chống thất thu thuế,phân bổ NS cho chi đầu tư và chi thường xuyên cho hợp lý

Nguồn vốn tín dụngđầu tư phát triển

Tín dụng đầu tư là quan hệ tín dụng trong đó nhà nước là người đi vay để đảm bảo các khảon chi của ngân sách đồng thời nhà nước cũng là người cho vay để đảm bảo các chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế.Là nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước .Ngoài ra nó còn có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả đầu tư vì với cơ chế tín dụng các doanh nghiệp vay vốn phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay.Do có yếu tố ưu đãi nên khuyến khích các DN đầu tư theo định hướng của nhà nước

Trong những năm gần dây đã sử dụng nguồn vốn này hỗ trợ cho các chương trình đầu tư lớn.Đầu tư cho các dự án thuộc các ngành công nghiệp và xây dựng chiếm 51,6%,vào các ngành nông lâm thủy sản chiếm 16,2%,GTVT chiếm 28,8%,các dự án khác chiếm 4,2%.Qúa trình này góp phần tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HDH.

Nguồn vốn tự huy động của các DNNN Là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế,các DNNN vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn.Trong những năm 2001-2004 vốn này chiếm 32,3% so với tổng vốn đầu tư nhà nước,trong đó chủ yếu là vốn khấu hao cơ bản của các doanh nghiệp,trích lợi nhuận sau thuế cho ĐTPT và một phần vay từ các tổ chức tín dụng.Nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp dùng để đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm

Theo đánh giá nguồn vốn nguồn vốn khu vực nhà nước trong nhiều năm nay chiếm tỷ trọng trên 56,6%tổng số vốn đầt tư

Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư,phần tích lũy của các doanh nghiệp dân doanh,của hợp tác xã.Theo đánh giá sơ bộ khu vực kinh tế ngaòi nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để.Việc phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục tỷ đồng từ khu vực dân cư.Cụ thể năm 2004 đạt 69,5 tỷ đồng ,ngoài ra tính đến cuối năm 2004 tổng số doanh nghiệp dân doanh đăng kí hoạt động lên tới 160000 doanh nghiệp với xấp xỉ qui mô vốn là 140-150 nghìn tỷ đồng .

Vốn của hộ gia đình:Là phần thu nhập của hộ gia đình không bị tiêu dùng được tiết kiệm để đầu tư và tiền tích luỹ từ các hoạt động kinh doanh mà không phải là công ty.

Là nơi diễn ra các hoạt động mua,bán chứng khoán và các giấy ghi nợ trung hạn và dài hạn.Đây không phải là các sự việc mua đi bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ tay của một chủ thể này sang tay một chủ thể khác một cách đơn thuần nếu nhìn nhận từ bên ngoài.Về thực chất,đây là quá trình vận động tư bản ở hình thái tiền tệ -là quá trình chuyển tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn tiết kiệm của từng hộ dân cư,thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp,các tổ chức tài chính,chính phủ TW và chính quyền địa phương tạo ra một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tế.Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động nào có thể làm được.Gần đây việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng đã huy động được một nguồn vốn đáng kể.Kênh huy động này ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia.Tính đến cuối tháng 11-2005 tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp đạt trên 2000 tỷ đồng.Trong đó hầu hết hầu hết các dơn vị phát hành đều là những tổn công ty lớn như tổng công ty dầu khí phát hành 300 tỷ đồng,xây dựng song đà 200 tỷ đồng,điện lực VN 200 tỷ đồng công nghiệp tàu thủy VN 1000tỷ đồng.

Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế đó là quá trình chuyển giao nguồn lựuc tài chính giữa các quốc gia trên thế giới .Theo tính chất lưư chuyển của vốn ,có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính như sau:

Tài trợ phát triển chính thức ODF nguồn vốn này bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA và các hình thức tái trợ phát triển khác .Dòng vốn này phải qua chính phủ quốc gia tiếp nhận hoặc được bảo lãnh chính thức,dòng vốn phải đáp ứng cho đầu tư phát triển,duy trì và tạo mới để đảm bảo sự hoạt động của nền kinh tế và các cơ sở,nó không bao hàm các nguồn vốn mang tính chất nhân đạo như cứu nạn thiên tai…mà nó mang tính chất dài hạn,trong đó ODA chiếm phần lớn trong ODF .

Nguồn vốn ODA là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển.So với các hình thức tài trợ khác ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác .Nguồn vốn này thường lớn nên có tác dụng nhanh và mạnh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu kinh tế xã hội của nước nhận đầu tư.Tuy nhiên tiếp nhận vốn này thường gắn với sự trả giá về mặt chính trị và tình trạng nợ nần chồng chất nếu sử dụng không hiệu qủa vốn vay và nếu thực hiện không nghiêm ngặt việc trả nợ vay.

Thời gian qua,việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp CNH-HĐH ở VN đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi.Kể từ năm 1993 cho đến hết năm 2000 VN đã tổ chức được 8 hội nghị các nhà tài trợ với tổng số vốn cam kết là 17,54 tỷ usd.Với quy mô tài trợ khác nhau,hiện nay VN có45 đối tác hợp tác phat triển song phương và hơn 350 tổ chức quốc tế và phi chính phủ đang hoạt động.

Mặc dù có tính ưu đãi cao song sự ưu đãi của loại vốn này thường đi kềm với các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe(tính hiệu quả của dự án ,thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…)Vì vậy chúng ta cần xem xét kỹ khi tiếp nhận viện trợ và cần có nghệ thuật thỏa thuận để có thể nhận vốn ,vừa bảo tồn được các mụa tiêu có tính nguyên tắc.

Nguồn vốn tín dụng từ các NHTM Điều kiện huy động loại vốn này không dễ dàng như nguồn vốn ODA .Tuy nhiên nó lại có ưu điểm rõ ràng là không gắn liền với các ràng buộc về chính trị xã hội.Mặc dù vậy thủ tục vay tương đối khắt khe,thời gian trả nợ nghiêm ngặt,mức lãi xuất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.

Do được đánh giá là mức lãi xuất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng ,nguồn vốn tín dụng của các NHTM thường được sự dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn.Một bộ phận của nguồn vốn này có thể dung để đầu tư phát triển.Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài,đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sang sủa.Đối với VN việc tiếp cận với các nguồn vốn này vẫn còn khá hạn chế.

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) Đây là nguồn vốn quan trọng cho đâu tư và phát triểnb không chỉ đối với các nước nghèo mà cả đối với các nước phát triển.Nguồn vốn này khác cơ bản với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận.Thay vì nhận lãi xuất trên vốn đầu tư,nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả.Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới,đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật,công nghiệp hay cần nhiều vốn.Vì thế nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình CNH,chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư.Do vậy để sử dụng hiệu quả vốn đầu FDI tùy thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không phải ở ý đồ của người đầu tư.

Không những là nguồn bổ sung vốn quan trọng,nguồn vốn FDI còn đóng góp vào bù dắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.Theo đánh giá,tỷ trọng đóng góp của vốn đầu tư trực tiếp nứớc ngoài vào GDP có xu hướng tăng dần qua các năm.Năm 1992 la 2% htì năm 1996 là 7,9% và đến năm 1999 là 10,3%.Bên cạnh đó nó còn đóng góp vào ngân sách một phần đáng kể .Đặc biệt nó góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thong vận tải,bưu chính viễn thông …dần dần hình thành khu công nghiệp,khu chế xuất,khu công nghiệp cao góp phần thực hiện CNH-HDH và đô thị hóa các khu vực phát triển,hình thành các khu dân cư mới,tạo việc làm cho ngừoi lao động tại các địa phương.

Thị trường vốn quốc tế Với xu hướng toàn cầu hóa ,mối lien kết ngày càng tăng của của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc gia đã tạo ra vẻ đa dạng của các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.Thực tế cho thấy,mặc dù tất cả các nguồn vốn đều có sự gia tăng về khối lượng nhưng luồng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán có mức tăng nhanh hơn các luồng vốn khác.

Đây là phần tích luỹ từ các đối tượng kinh tế ở nước ngoài được chính phủ và DN Việt Nam huy động trong hoạt động đầu tư phát triển của mình thông qua hình thức phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty(ra nước ngoài hoặc phát hành trên nội bộ VN nhưng cho phép người nưosc ngoài mua).

Đối với VN,đây là một hình thức huy động vốn vốn khá mới mẻ và còn phức tạp.Tuy nhiên nguồn vốn này có thể huy động với số lượng lớn trong thời gian dài để đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế mà không bị ràng buộc về điều kiện tín dụng,tạo cho VN tiếp cận với thị trường vốn quốc tế… bên cạnh đó hệ số tín nhiệm của VN thấp nen nếu phát hành thì trái phiếu của VN sẽ chịu lãi xuất ở mức cao và viêt nam vẫn còn qúa ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này.

Bởi vậy đối với hình thức huy động này chúng ta cần phải nghiên cứu,lựa chọn loại hình trái phiếu phát hành,thời gian đáo hạn thị trường phát hành và nhà bao tiêu phù hợp với điều kiện của VN .

Sự phân chia sử dụng vốn đầu tư phát triển Để tạo thuận lợi cho quản lý việc sử dụng vốn đầu tư nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao,có thể phân chia vốn đầu tư thành các khoản mục sau:

Trên giác độ quản lý vĩ mô vvốn đầu tư được phân thành 4 khoản mục lớn như sau:

  • Những chi phí tạo ra tài sản cố định(mà sự biểu hiện bằng tiền là vốn cố định).
  • Những chi phí tạo ra tài sản lưu động (mà sự biểu hiện bằng tiềnlà vốn lưu động) và các chi phí thường xuyêngắn với một chu kỳ hoạt động của tài sản cố định vừa được tạo ra.
  • Những chi phí chuẩn bị đầu tưchiếm khoảng 0,3-15%vốn đầu tư.
  • Chi phí dự phòng.

Trên giác độ quản lý vi mô tại các cơ sở,những khoản mục trên đây lại được tách thành những khoản chi tiết hơn:

Những chi phí tạo ra tài sản cố định bao gồm:

  • Chi phí ban đầu cho đất đai.
  • Chi phí xây dựng,sửa chữa nhà cửa ,cấu trúc hạ tầng.
  • Chi phí mua sắm,lắp đặt thiết bị ,dụng cụ mua sắm phương tiện vạn chuyển
  • Chi phí khác.

Những chi phí tạo ra tài sản lưu động bao gồm :

  • Chi phí nằm trong giai đoạn sản xuất như chi phí mua nguyên vật liệu,trả luơng người lao động,chi phí điện nước …
  • Chi phí nằm trong giai đoạn lưu thông gồm có sản phẩm dở dang tồn kho,hàng hóa bán chịu,vốn bằng tiền.

Chi phí chuản bị đầu tư bao gồm chi phí nghiên cứucơ hội đầu tư,chi phí nghiên cưu tiền khả thi,chi phí nghiên cứu khả thi và thẩm định dự án đầu tư.

Chi phí dự phòng.

Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Qua phân tích trên ta thấy tăng số lượng vốn là rất quan trọng nhưng thường có giới hạn về nguồn còn nâng cao hiệu quả đầu tư quan trọng hơn nhiều vì vừa hết ít vốn vừa gần như không có giới hạn.

Để nâng cao hiệu quả đầu tư trên cơ sở giảm suất đầu tư xuống là nhiệm vụ rất khó khăn bởi.Muốn vậy ,cần có giải pháp quyết liệt ở tất cả các khâu của quá trình đầu tư và đặc biệt quan tâm đến khu vực vốn đầu tư nhà nước.

Trước hết ở khâu quy hoạch chúng ta phải quy hoạch đồng bộ,phải kết hợp quy hoạch theo ngành và theo cùng lãnh thổ tránh trùng chéo,dàn trải,đồng thời phải có tầm nhìn để tránh việc vay vốn đầu tư xây dựng đưa vào hoạt động chưa được mấy năm,chưa trả đựợc nợ đã phải di chuyển khỏi khu vực đông dân hoặc không gần nguồn nguyên liệu ...

Khắc phục tình trạng công trình dự án chưa có kế hoạch,thiết kế chưa được duyệt,chưa có vốn đã thi công gây ra nợ đọng triền mien,rồi cũng lại đến tay nhà nước!Ngay cả nguồn huy động trái phiếu các địa phương cũng phải thiết kế trả nợ,tránh dồn vào ngân sách trung ương.

Khắc phục tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng hiện đang ở mức rất lơn mà báo chí,chính phủ.quốc hội đac đề cập rất nhiều.Khắc phục tình trạng khép kín để đảm bảo tính minh bạch công khai.

Khắc phục tình trạng thi công kéo dài làm cho công trình vừa chậm đi vào hoạt động,vừa lỡ thời cơ,trong khi lãi chồng lên vốn vay.

Giảm thiểu chi phí giải phóng mặt bằng hiện đang quá lớn,ở những công trình còn lớn hơn cả vốn đầu tư cho công trình chính.

Một điều quan trọng hàng đầu là đổi mới cơ chế đầu tư,chuyển việc cấp phát vốn ngân sách sang tín dụng,giảm thiểu tín dụng ưu đãi để giảm thiểu cơ chế “xin-cho”,vì đây là kẽ hở cho thất thoát,tham nhũng.

0