18/06/2018, 13:05

Ngôn ngữ - Chữ viết

Chữ Nôm (nôm do đọc chệch từ nam, chữ người Việt trong thế đối lập với chữ Hán của người Bắc tức Trung Quốc). Mượn từ tượng hình Hán để ghi lại âm tiếng Việt. Gồm phần ghi nghĩa của tiếng Hán và phần ghi âm. Chưa rõ thời gian nào xuất hiện (có thể vào khoảng thế kỷ VIII). Những bài thơ Nôm đầu ...

Chữ Nôm (nôm do đọc chệch từ nam, chữ người Việt trong thế đối lập với chữ Hán của người Bắc tức Trung Quốc). Mượn từ tượng hình Hán để ghi lại âm tiếng Việt. Gồm phần ghi nghĩa của tiếng Hán và phần ghi âm. Chưa rõ thời gian nào xuất hiện (có thể vào khoảng thế kỷ VIII). Những bài thơ Nôm đầu tiên được nhắc đến là của Hàn Thuyên và Nguyễn Sĩ Cố (cuối thế kỉ XIII). Sự xuất hiện của chữ Nôm đánh dấu sự trưởng thành trong ý thức dân tộc của người Việt và giúp cho nền văn học Việt Nam phát triển rực rỡ từ cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX như truyện Nôm, Ngâm khúc, hát nói, chèo... Do phức tạp và chưa hoàn chỉnh chữ Nôm đã bị chữ quốc ngữ thay thế. 

Chữ quốc ngữ. Chữ viết phiên âm tiếng Việt bằng chữ Latinh. Thế kỉ XVII giáo sĩ phương Tây vào Việt Nam truyền đạo, dùng đầu tiên chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt. Giáo sĩ Bồ Đào Nha đã soạn Từ vựng An Nam - Bồ Đào và Từ vựng Bồ Đào – An Nam. Năm 1651, Alexandre de Rhodes xuất bản Từ điển An Nam - Bồ Đào và Latinh. Cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX, Pigneau de Béhaine tức Bá Đa Lộc và Taberd soạn Từ điển An Nam – Latinh, xuất bản 1836. Qua mấy thế kỉ, chữ quốc ngữ có nhiều sửa đổi, dần thay thế cho chữ Hán và chữ Nôm, trở thành văn tự phổ biến của Việt Nam. 

Đơn âm. Tiếng Việt là tiếng đơn âm tiết, nghĩa là đa số các từ trùng với tiếng hoặc hình vị. Đặc điểm này làm cho tiếng Việt có nhiều từ đồng âm. Ví dụ: đường (đường đi, đường ăn). Tạo điều kiện cho nghệ thuật chơi chữ, câu đối, chiết tự, các phương tiện biểu hiện câu khác. Ảnh hưởng đến cơ chế tiếp thu các từ mới, thuật ngữ từ tiếng đa âm tiết bị đơn âm tiết hoá.

 

0