25/05/2018, 12:02

Nghêu

hay ngao là tên gọi dùng để chỉ các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ (nhuyễn thể) thuộc họ Veneridae chuyên sống ở vùng nước ven biển có độ mặn cao, nước trong,[cần dẫn nguồn] nhiều đất cát sỏi, phân bố khá phổ biến ở vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt ...

hay ngao là tên gọi dùng để chỉ các loài động vật thân mềm hai mảnh vỏ (nhuyễn thể) thuộc họ Veneridae chuyên sống ở vùng nước ven biển có độ mặn cao, nước trong,[cần dẫn nguồn] nhiều đất cát sỏi, phân bố khá phổ biến ở vùng biển nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Đây là loài hải sản có giá trị kinh tế cao, dễ nuôi, không tốn nhiều công chăm sóc.

Vùng sinh sống

thích sống ở bãi triều trên vùng biển cạn. Chất đáy nơi nghêu phân bố là cát pha bùn (tỷ lệ cát thích hợp là 60 - 70%) hay sống vùi trong đáy cát bùn của vùng triều, chủ yếu ở giải triều giữa và dưới triều, có thể gặp ở độ sâu 4m. Trong tự nhiên chưa gặp loài này ở vùng dáy bùn, đáy rắn chắc

Tập tính ăn

là động vật ăn lọc, không có khả năng chủ động săn mồi và chọn lọc thức ăn, 90% thức ăn là mùn bã hữu cơ, còn lại là sinh vật phù du-chủ yếu là tảo silic, tảo giáp, tảo lam, tảo lục và tảo kim. ăn và tăng trưởng mạnh từ tháng thứ hai đến tháng thứ năm. Mưa lũ làm giảm độ mặn, khiến nghêu ít ăn và chậm lớn. Các tháng mùa mưa lũ và sau mùa lũ có độ muối nhạt, chúng phải ngậm vỏ, không ăn một thời gian dài trong ngày, độ no thấp

Trong ống tiêu hoá của nghêu thấy: mùn bã hữu cơ 75-90%, còn lại là sinh vật phù du chủ yếu là tảo Silic phù du: Bacillariopyceae (90-95%), tảo giáp Dinophyceae (3,3-6,6%), tảo lam, tảo lục, tảo kim mỗi loại từ 0,8-1,0%

Sinh trưởng

sinh trưởng theo mùa, đặc biệt là vào mùa mưa, chất hữu cơ từ các cửa sông đổ ra nhiều, nghêu mau lớn, sinh trưởng nhanh. là loài phân tính đực cái riêng, chưa gặp hiện tượng lưỡng tính. Khi tuyến sinh dục thành thục, nó căng lên như hai múi bưởi, màu nâu nhạt. Số trứng trong noãn sào con cái 3.168.000 - 8.650.000, trung bình 5.362.000 trứng trong một cá thể. Đây là loài sinh sản quanh năm, nhưng tập trung vào tháng 1 đến tháng 2 và tháng 7 đến tháng 8. Tỷ lệ đực cái trung bình 1:1, 5. Một con nghêu cái có thể đẻ hàng triệu trứng một lần. Đẻ trung bình 5 triệu trứng/cá thể. Ấu trùng nghêu sống trôi nổi trong nước một thời gian thì hình thành vỏ rồi chìm xuống đáy.

“cám” bé bằng nửa hạt gạo, vỏ mỏng, dẹp, nặng 0,04-0,07 g (15.000-25.000 con/kg) vùi sâu xuống cát khoảng 1 cm, lên kiếm ăn theo thủy triều và thường bị sóng cuốn và dòng triều đưa đi tương đối xa, có khi dạt lên cao, bị phơi khô mà chết. Sau khoảng hơn 1 tháng, nghêu cám lớn thành nghêu giống, nặng 0,16-0,20 g (5.000-6.000 con/kg), vỏ đã tương đối cứng, có thể đem ươm ở các bãi.

Khi nghêu tăng trưởng, khối lượng thịt tăng chậm hơn so với vỏ. Cứ 100 kg nghêu cỡ 35-37 mm (45-50 con/kg), ta thu được 7,7-8,3 kg thịt; nhưng với 100 kg nghêu to cỡ 49-50 mm (19-21 con/kg) thì chỉ thu được 6,7-7,3 kg thịt.

Kỷ lục về tuổi thọ

Đã có phát hiện trường hợp một con nghêu ở ngoài khơi Iceland có tuổi thọ từ 405 đến 410 tuổi[và đặt tên là Con nghêu nhà Minh (đặt tên này là vì nó được sinh ra trong thời gian nhà Minh đang trị vì tại Trung Quốc). Các nhà nghiên cứu cho biết căn cứ vào số lượng vòng trên vỏ, họ đã xác định được tuổi của con nghêu này. Trước đây kỷ lục Guiness cho một con vật sống lâu nhất thuộc về một con nghêu Bắc Băng Dương được tìm thấy năm 1982 có tuổi đời 220 năm.

Ở Việt Nam, nghêu được nuôi nhiều ở các tỉnh ven biển như Tiền Giang (Gò Công Đông)[5], Bến Tre (Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú), Trà Vinh (Cầu Ngang, Duyên Hải), Sóc Trăng (Vĩnh Châu), Bạc Liêu (Bạc Liêu, Vĩnh Lợi, Ngọc Hiển) ven biển Cần Giờ (thành phố Hồ Chí Minh) và một số tỉnh duyên hải Bắc và Trung bộ.

  • Meretrix lyrata (nghêu Bến Tre): Phân bố ở vùng nhiệt đới Tây Thái Bình Dương, từ Đài Loan đến Việt Nam (duyên hải Nam bộ). Môi trường sống của nghêu là các bãi có chất đáy cát bùn, chịu được độ mặn từ 7-25 ‰. Hình dạng: vỏ hình tam giác, nghêu lớn có chiều dài 40-50mm, chiều cao 40-45mm và chiều rộng 30-35mm. Tại Việt Nam, nghêu Bến Tre được khai thác tháng 2 đến tháng 5, hiện đang được nuôi rộng rãi ở các tỉnh ven biển Nam bộ. Có thể ăn tươi hoặc dùng để hấp, luộc, nướng
  • Paphia undulata (nghêu lụa): Có hình bầu dục dài, dài 54 mm, cao 30 mm, rộng 16 mm, mặt nguyệt rõ ràng, da vỏ láng, mặt vỏ có nhiều vân phóng xạ màu tím gấp khúc dạng hình mạng lưới. Phân bố tập trung ở vùng biển Kiên Giang và Bình Thuận, từ vùng dưới triều đến vùng biển nông, đáy bùn cát. Mùa vụ khai thác: từ tháng 12 năm trước đến tháng 6 năm sau. Có thể ăn tươi hoặc dùng để hấp, luộc, nướng.
  • Meretrix meretrix (nghêu trắng, ngao dầu, ngao vạng): Vỏ có dạng hình tam giác, da vỏ màu nâu, trơn bóng. Ngao lớn có chiều dài 130mmm, cao 110mm, rộng 58mm. Tại Việt Nam, ngao dầu được phân bố tập trung ở các vùng biển thuộc các tỉnh Nghệ An, Thanh Hoá, Thái Bình, Nam Định, Bến Tre, Tiền Giang. Ngao dầu được khai thác trong tháng 10-12, hiện đã được nuôi ở vùng biển Thái Bình, Thanh Hoá, Nam Định. Có thể ăn tươi, hấp, luộc, nướng.
  • Meretrix lusoria (ngao vân): sống ở đáy cát, độ sâu 1 – 2m nước, sống vùi trong cát từ 3-4 cm, dùng ống hút nước đê lấy thức ăn từ bên ngoài. Hình thái: vỏ hình tam giác, con lớn có thể dài 62mm, cao 49mm, rộng 28mm. Da vỏ láng màu vàng sữa, hoặc màu vàng hơi tím. Phân bố chủ yếu ở vùng biển Nghệ An. Có thể ăn tươi, luộc, nướng.

Thịt nghêu là loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, thơm ngon được nhiều người ưa thích (chiếm 56% protein tính theo trọng lượng khô). sinh trưởng rất nhanh, sức sinh sản lớn, sản lượng khai thác hàng năm tương đối cao, phục vụ tiêu thụ nội địa và xuất khẩu, chính vì thế chúng trở thành đối tượng kinh tế của ngư dân vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long làm cho nghề nuôi nghêu phát triển tuy vậy cũng cần đặt ra vấn đề khai thác hợp lý để bảo vệ nguồn lợi này

dùng làm nguyên liệu đế chế biến nhiều món ăn ngon như: bún nghêu chua cay thì là canh gà nấu nghêu một số món ăn khoái khẩu như hấp sả ăn chơi, chấm mắm pha tỏi ớt hay muối tiêu chanh, nghêu xốt chua ngọt.... Tuy vậy cũng cần chú ý đến yếu tố vệ sinh, chế biến vì có thông tin cho rằng các loài vẹm xanh, ngao, nghêu đều tích luỹ cả 3 loại độc tố tảo ASP, PSP và DSP trong mô nội tạng.

  • Mùa vụ và thời gian nuôi: nuôi nghêu thương phẩm gần như quanh năm, tập trung vào tháng 1 đến tháng 3. Thời gian nuôi phụ thuộc nhiều vào cỡ giống, mật độ thả và điều kiện bãi nuôi.
  • Chăm sóc và quản lý: Nên thường xuyên quan sát tình trạng sinh sống của nghêu, nếu thấy chúng phân bố đều trên bãi, khi triều rút có nhiều “lỗ mày” thì điều ấy chứng tỏ chúng sinh trưởng tốt.

    Cần theo dõi kỹ biến động mặt bãi (hiện tượng phá bãi) cũng như lượng phù sa bồi lắng để có hướng khắc phục kịp thời. Nếu phù sa vào bãi dày hơn 5 cm hoặc có hiện tượng phá bãi xảy ra thì tiến hành di chuyển nghêu đến bãi bằng phẳng hơn.

    Theo dõi các yếu tố môi trường đặc biệt là độ mặn. Vào mùa mưa, di chuyển bãi nuôi nghêu ra xa hơn, vào mùa nắng thì di chuyển bãi nuôi gần bờ. Khi triều xuống, đi thu bắt ốc mỡ trơn (Polynices didyma Bottem) và ốc mỡ hoa (Natica maculosa Lamarch) vì chúng ăn nghêu nhỏ.

  • Thu hoạch: Nên thu hoạch nghêu lúc đạt kích cỡ vừa, sau 8-10 tháng nuôi. Chọn thu hoạch vào lúc cuối mùa mưa, là lúc nghêu mập, nặng ký, ngon. Tiến hành thu hoạch vào lúc triều rút, lúc chúng đã được ăn no và thải ra các thức ăn thừa thãi, chỉ giữ lại nước nên thịt nghêu sẽ rất sạch (ngược lại, lúc triều lên, nghêu thường ngậm cát, bùn).

được nhắc đến trong vở tuồng hay chèo mang tên "nghêu, sò, ốc, hến" hay từ "hát nghêu ngao"

0