05/06/2017, 00:05
Nêu những nét chính trong sự nghiệp văn học của nhà thơ Xuân Diệu.
Cũng như nhiều nhà thơ, nhà văn Việt Nam, sự nghiệp văn học của Xuân Diệu diễn ra theo hai giai đoạn chính: 1) Trước cách mạng tháng tám: Xuân Diệu sáng tác cả thơ lẫn văn. a) Về thơ: Thành tựu nổi bật với các tập Thơ thơ (1938). Gửi hương cho gió (1945). Lúc này thơ Xuân Diệu luôn rạo ...
Cũng như nhiều nhà thơ, nhà văn Việt Nam, sự nghiệp văn học của Xuân Diệu diễn ra theo hai giai đoạn chính:
1) Trước cách mạng tháng tám: Xuân Diệu sáng tác cả thơ lẫn văn.
a) Về thơ:
Thành tựu nổi bật với các tập Thơ thơ (1938). Gửi hương cho gió (1945).
Lúc này thơ Xuân Diệu luôn rạo rực tình yêu, tình yêu đôi lứa, yêu cuộc sống với muôn ngàn thanh sắc. Thơ ông luôn “vội vàng” “giục giã” tận hưởng tình yêu và vẻ đẹp thiên nhiên. Say đắm nồng nàn, vồ vập nhưng vẫn đơn côi, bơ vơ. Đó chính là đặc điểm thơ tình Xuân Diệu trong cuộc đời cũ.
Thơ Xuân Diệu đổi mới nhiều trong cảm nhận và diễn đạt. Tiếp nhận mạnh thơ lãng mạn Pháp, thơ Xuân Diệu bộc lộ và khẳng định rõ “cái tôi”: “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”, / “tôi muốn tắt nắng đi”... Đồng thời thơ Xuân Diệu vẫn học hỏi ở thơ phương Đông cổ xưa. Nhờ vậy thơ ông thể hiện những nét tinh vi tế nhị của lòng người, của cảnh sắc thiên nhiên. Thơ Xuân Diệu tạo nhiều hình ảnh mới với cách kết hợp từ lạ:
- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
- Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
- Lá liễu dài như một nét mi.
Lấy người làm chuẩn cho vẻ xinh đẹp, tinh tú như thế là một nét mới so với thơ cổ. Các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã đánh giá Xuân Diệu “mới nhất trong các nhà thơ mới”.
b) Về văn:
Hai tập Phấn thông vàng (1939) và Trường ca (1945) có nhiều dòng văn đẹp, mượt mà, trữ tình như thơ.
2) Sau cách mạng tháng tám.
a. Về thơ:
Nhiều tập nối tiếp nhau ra đời khẳng định năng lực, bút lực Xuân Diệu: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - cầm tay (1962). Một khối hồng (1964). Tôi giàu đôi mắt (1970)...
Khắc phục tâm trạng buồn, cô đơn thời trước, thơ Xuân Diệu bây giờ ca ngợi cuộc sống mới xây dựng và chiến đấu, thể hiện sự gắn bó hòa hợp giữa cái riêng và cái chung, giữa cá thể thi sĩ và tập thể nhân dân. Nhà thơ khẳng định.
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu, gian lao.
Ngoài giọng điệu trữ tình là chủ đạo, thơ Xuân Diệu còn thể hiện giọng chính luận và trào phúng đả kích.
b. Về văn:
Nhiều tập tiểu luận phê bình có giá trị (thí dụ: Dao có mài mới sắc, các nhà thơ cổ điển Việt Nam...)
Tóm lại, non nửa thế kỉ sáng tác, Xuân Diệu thực sự là nhà thơ lớn của dân tộc ta. Riêng về mặt thơ tình, ông xứng với lời thơ của "Khương Hữu Dụng: “Một thế hệ yêu - tỏ tình qua Xuân Diệu”.
a) Về thơ:
Thành tựu nổi bật với các tập Thơ thơ (1938). Gửi hương cho gió (1945).
Lúc này thơ Xuân Diệu luôn rạo rực tình yêu, tình yêu đôi lứa, yêu cuộc sống với muôn ngàn thanh sắc. Thơ ông luôn “vội vàng” “giục giã” tận hưởng tình yêu và vẻ đẹp thiên nhiên. Say đắm nồng nàn, vồ vập nhưng vẫn đơn côi, bơ vơ. Đó chính là đặc điểm thơ tình Xuân Diệu trong cuộc đời cũ.
Thơ Xuân Diệu đổi mới nhiều trong cảm nhận và diễn đạt. Tiếp nhận mạnh thơ lãng mạn Pháp, thơ Xuân Diệu bộc lộ và khẳng định rõ “cái tôi”: “Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”, / “tôi muốn tắt nắng đi”... Đồng thời thơ Xuân Diệu vẫn học hỏi ở thơ phương Đông cổ xưa. Nhờ vậy thơ ông thể hiện những nét tinh vi tế nhị của lòng người, của cảnh sắc thiên nhiên. Thơ Xuân Diệu tạo nhiều hình ảnh mới với cách kết hợp từ lạ:
- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
- Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
- Lá liễu dài như một nét mi.
Lấy người làm chuẩn cho vẻ xinh đẹp, tinh tú như thế là một nét mới so với thơ cổ. Các tác giả của Thi nhân Việt Nam đã đánh giá Xuân Diệu “mới nhất trong các nhà thơ mới”.
b) Về văn:
2) Sau cách mạng tháng tám.
a. Về thơ:
Nhiều tập nối tiếp nhau ra đời khẳng định năng lực, bút lực Xuân Diệu: Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau - cầm tay (1962). Một khối hồng (1964). Tôi giàu đôi mắt (1970)...
Khắc phục tâm trạng buồn, cô đơn thời trước, thơ Xuân Diệu bây giờ ca ngợi cuộc sống mới xây dựng và chiến đấu, thể hiện sự gắn bó hòa hợp giữa cái riêng và cái chung, giữa cá thể thi sĩ và tập thể nhân dân. Nhà thơ khẳng định.
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu, gian lao.
Ngoài giọng điệu trữ tình là chủ đạo, thơ Xuân Diệu còn thể hiện giọng chính luận và trào phúng đả kích.
b. Về văn:
Nhiều tập tiểu luận phê bình có giá trị (thí dụ: Dao có mài mới sắc, các nhà thơ cổ điển Việt Nam...)
Tóm lại, non nửa thế kỉ sáng tác, Xuân Diệu thực sự là nhà thơ lớn của dân tộc ta. Riêng về mặt thơ tình, ông xứng với lời thơ của "Khương Hữu Dụng: “Một thế hệ yêu - tỏ tình qua Xuân Diệu”.