Một số rủi ro ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Trong hoạt động kinh doanh luôn luôn có nhứng khó khăn khiến dự định kinh doanh ban đầu có thể không đạt được như ý muốn, tất cả những khó khăn đó gọi là rủi ro. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng rất đa dạng và phong phú, vì vậy rủi ro đe ...
Trong hoạt động kinh doanh luôn luôn có nhứng khó khăn khiến dự định kinh doanh ban đầu có thể không đạt được như ý muốn, tất cả những khó khăn đó gọi là rủi ro. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng rất đa dạng và phong phú, vì vậy rủi ro đe dọa nó cũng có nhiều hình thái khác nhau. Theo loại hình rủi ro gắn với hoạt động kinh doanh có thể chia rủi ro của Ngân hàng ra làm các loại rủi ro chính như: rủi ro về ngân quỹ, rủi ro về chứng khoán, rủi ro về lãi suất, rủi ro về tín dụng, rủi ro về tài sản khác. Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thì rủi ro tín dụng là rủi ro hay xảy ra nhất và ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng là tình trạng người vay vốn Ngân hàng cố tình hoặc không có khả năng hoàn trả một phàn hoặc toàn bộ gốc và lãi đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng.[4]
Rủi ro tín dụng có hai loại:
- Rủi ro sai hẹn: là rủi ro khi người vay vốn không hoàn trả đủ gốc và lãi tiền vay đúng hẹn trong hợp đồng tín dụng.
- Rủi ro mất vốn: là rủi ro khi người vay vốn Ngân hàng không hoàn trả gốc tiền vay một cách đầy đủ.
Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động Ngân hàng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng vẫn là hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng. Vì thế ở tất cả các nước, rủi ro tín dụng là vấn đề được đặc biệt quan tâm không chỉ trong phạm vi các Ngân hàng, mà cả trên phạm vi toàn nền kinh tế.
Để nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng, cần phải hiểu rõ nguyên nhân nào đưa đến rủi ro tín dụng để có biện pháp hữu hiệu nhất làm cho kinh doanh tín dụng mang lại hiệu quả cao cho Ngân hàng. Rủi ro tín dụng xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhìn chung bao gồm: nguyên nhân chủ quan từ phía khách hàng, Ngân hàng, hay nguyên nhân khách quan như ảnh hưởng của nền kinh tế, môi trường kinh doanh, pháp lý….
Rủi ro do nguyên nhân khách quan:
Môi trường kinh tế không ổn định:
- Quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế:
Quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm nợ xấu gia tăng khi tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến các doanh nghiệp cũng như các khách hàng cá nhân thường xuyên của Ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập cũng khiến cho các Ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kếm gặp nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị Ngân hàng thu hút.
- Sự biến động liên tục và khó dự đoán được của nền kinh tế Thế giới:
Sự hưng thịnh hay suy thoái của nền kinh tế: nền kinh tế hưng thịnh, khách hàng làm ăn có hiệu quả thì việc trả nợ dễ dàng, Ngân hàng thu nợ không mấy khó khăn. Kinh tế suy thoái, sản xuất bị ngừng trệ, khách hàng dễ bị thua lỗ, phá sản, mất khả năng thanh toán nợ cho Ngân hàng.
Việc gia nhập vào tổ chức WTO đã đem đến cho Việt Nam nhiều cơ hội và thách thức. Năm 2008 vừa qua từ cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ sự sụp đổ của các tập đoàn, Ngân hàng lớn của Mỹ đã khiến cho nền kinh tế thế giới có nhiều sự thay đổi lớn. Giá cổ phiếu trồi sụt thất thường, thất nghiệp tăng, sức mua và niềm tin của người tiêu dùng, các doanh nghiệp giảm, sản xuất công nghiệp, xuất khẩu đi xuống, lạm phát…kéo một loạt các hệ quả không thể lường trước được. Việt Nam cũng bị ảnh hưởng ít nhiều là điều tất yếu.
Nền kinh tế VN vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới, nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
Ngành dệt may trong một số năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch làm ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói riêng và của các ngân hàng cho vay nói chung. Ngành thủy sản cũng gặp nhiều lao đao vì các vụ kiện bán phá giá vừa qua.
Không chỉ xuất khẩu, các mặt hàng nhập khẩu cũng dễ bị tổn thương không kém. Mặt hàng sắt thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.
Nền kinh tế suy thoái đó làm xuất hiện những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ và phá sản. Từ đó các khoản tiền vay của ngân hàng không trả được hoặc nếu lạm phát ngày càng gia tăng cũng có thể dẫn đến rủi ro tín dụng, bởi vì trong giai đoạn lạm phát xảy ra người gửi tiền có tâm lý lo sợ nên rút tiền ra khỏi ngân hàng, còn người đi vay thì gia tăng nhu cầu xin vay và muốn kéo dài thời gian vay vốn làm ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng.
Môi trường pháp lý chưa thuận lợi và không chặt chẽ:
- Sự quản lý kém hiệu quả của cơ quan pháp luật địa phương:
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng Ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có, song việc triển khai vào hoạt động của Ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và gặp nhiều vướng mắc, bất cập như một số vấn đề cưỡng chế và thu hồi nợ như trường hợp khách hàng không trả được nợ, Ngân hàng Thương mại có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay. Thực tế, Ngân hàng Thương mại không làm được điều này vì Ngân hàng Thương mại không phải là một tổ chức kinh tế, không có chức năng chế buộc khách hàng…cùng nhiều các quy định khác dẫn đến tình trạng không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. Chính vì môi trường pháp lý không chặt chẽ tạo cho khách hàng có cơ hội lợi dụng sơ hở của pháp luật, gây bế tắc cho Ngân hàng khi giải quyết các khoản thu hồi.
- Sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của Ngân hàng Nhà nước:
Bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra Ngân hàng và đảm bảo an toàn hệ thống chưa có sự cải tiến căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra giám giát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra Ngân hàng vẫn chưa theo kịp. Thanh tra Ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Do vậy, có những sai phạm của NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo, có biện pháp ngăn chặn từ đầu, để đến khi hậu quả xảy ra rồi mới can thiệp. Hàng loạt các sai phạm khác về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống, lẽ ra có thể ngăn chặn ngay từ đầu để phát hiện và xử lý sớm hơn.
- Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập:
Cho dù cấp tín dụng dưới hình thức nào, Ngân hàng cũng phải nắm một lượng thông tin nhất định từ phía khách hàng, vì thiếu thông tin sẽ khó xác định năng lực hiện có của khách hàng, nếu thông tin không chính xác có thể đưa ra kết quả phân tích sai lệch. Kết quả phân tích là cơ sở để đưa ra quyết định tín dụng, nếu kết quả đưa ra sai lêch sẽ dẫn đến quyết định tín dụng sai lệch, dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng xảy ra cho Ngân hàng càng lớn.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và Ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước họat động bước đầu đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và có hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật. Đó cũng là thách thức cho Ngân hàng trong việv mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho hệ thống ngân hàng
Môi trường tự nhiên:
- Sự biến đổi của môi trường tự nhiên, thay đổi của khí hậu như: hạn hán, lũ lụt, động đất…cũng sẽ ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xẫ hội của dân cư trong nước và các đơn vị kinh tế vì nền kinh tế của Việt Nam vẫn còn lệ thuộc vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp...
Rủi ro từ phía khách hàng:
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay:
Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn Ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Có hai trường hợp rủi ro từ phía khách hàng:
Trường hợp thứ nhất, khách hàng là doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo Ngân hàng để chiếm đoạt tài sản. Đây là trường hợp tồi tệ nhất trong các nguyên nhân chủ quan dẫn đến rủi ro tín dụng của Ngân hàng. Nó biểu hiện là hành động có chủ ý của người vay, được tính toán chuẩn bị trước nhằm mục đích chiếm đoạt tiền vay của Ngân hàng. Họ tìm cách làm giả mạo giấy tờ, chũ ký, con dấu, hoặc điều chỉnh các báo cáo tài chính, hay làm các hóa đơn, chứng từ mua bán khống…để vay được vốn của Ngân hàng sau đó sử dụng tiền vay không đúng mục đích, không trả nợ. Trường hợp này không nhiều, tuy nhiên, khi vụ việc phát sinh lại ảnh hưởng hết sức nặng nề, Ngân hàng khó lòng thu hồi được nợ, có nguy cơ bị mất vốn hoàn toàn hoặc chỉ thu hồi được một phần, làm liên quan đến uy tín của cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
Trường hợp thứ hai, khách hàng có ý muốn trả nợ nhưng đang gặp khó khăn về tài chính tạm thời do những yếu tố khách quan ngoài ý muốn của khách hàng. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng chủ yếu vẫn là do khả năng quản lý kinh doanh kém hiệu quả. Có một thực tế là khi doanh nghiệp vay tiền của Ngân hàng để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh đa phần là tập trung vốn đầu tư về tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của phương án sản xuất kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
Thêm vào đó, do hạn chế về kiến thức kinh doanh nên khi lập các phương án kinh doanh, các dự án đầu tư, doanh nghiệp đã không tính đến những biến động của thị trường, đưa ra những phương án kinh doanh không hiệu quả, quản lý vốn lỏng lẻo nên bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn quá nhiều, đầu tư dàn trải không hiệu quả, dẫn đến làm ăn thua lỗ, không trả được nợ cho Ngân hàng. Cụ thể như:
+ Do không nắm bắt kịp thời sự thay đổi về thị trường cung cấp nguyên vật liệu, giá cả nguyên vật liệu lên xuống thất thường, thay đổi có chiều hướng bất lợi cho doanh nghiệp.
+ Máy móc thiết bị, kỹ thuật lạc hậu, không thay đổi kịp theo sự phát triển khoa học kỹ thuật hiện đại nên doanh nghiệp đã sản xuất ra những sản phẩm không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, không đạt được các yêu cầu về tiêu chuẩn, thị trường dẫn đến sản phẩm không bán được làm cho thị trường tiêu thụ bị thu hẹp. Khi thị trường tiêu thụ giảm thì doanh nghiệp phải giảm sản lượng, nếu không hàng hóa tồn kho sẽ tăng lên. Sản lượng giảm, định phí không giảm, giá thành tăng, đến một lúc nào đó sản lượng đầu vào sẽ thấp hơn sản lượng hòa vốn làm cho doanh nghiệp bị thua lỗ.[2]
- Tình hình tài chính yếu kém, thiếu minh bạch:
Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho Ngân hàng hầu như chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ Ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao Ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là một chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
Những rủi ro này có thể xảy ra khi:
- Tài sản thế chấp, tài sản cầm cố không đủ yếu tố pháp lý trong thời gian cầm cố, thế chấp.
- Đánh giá tài sản không chính xác nên dẫn đến tỷ lệ cho vay cao hơn so với giá trị thực của tài sản.
- Tài sản thuộc loại có chuyển đổi trên thị trường.
- Chi phí cho việc phát mãi tài sản cao.
- Người bảo lãnh thiếu năng lực về pháp lý, thiếu năng lực về tài chính và không có uy tín.
Rủi ro từ phía Ngân hàng cho vay:
- Công tác kiểm soát nội bộ các Ngân hàng còn lỏng lẻo.
Kiểm soát nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra Nhà nước ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay từ khi phát sinh vấn đề và tính sâu sát của kiểm soát viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc kiểm soát nội bộ của các Ngân hàng hầu hết chỉ tồn tại trên hình thức.
- Cán bộ tín dụng thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đạo đức của cán bộ là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực, trình độ chuyên môn có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ bị tha hóa về đạo đức mà giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.
Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn hạn chế dẫn đến hàng loạt các nguyên nhân sau:
+ Thiếu khả năng phân tích khách hàng như khả năng phân tích thẩm định dự án nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án, hoặc không phân tích được báo cáo tài chính một cách chính xác, không biết được năng lực thật sự của khách hàng.
+ Quá trình tái xét khoản vay không tích cực: Tái xét là quá trình theo dõi, giám sát khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không? Có nguy cơ xảy ra mất vốn hay không? Nếu xét thấy khả năng xấu có thể xảy ra thì phải tiến hành thu hồi nợ trước hạn hoặc đề ra biện pháp hỗ trợ thích hợp. Tái xét cho vay không tích cực, không chặt chẽ để đến khi vỡ nợ Ngân hàng sẽ khó thu hồi nợ.
- Thiếu sự giám sát và quản lý sau khi cho vay:
Các Ngân hàng thường tập trung nhiều công sức vào việc thẩm định trước khi cho vay mà nới lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn của mình sau khi cho vay. Khi Ngân hàng cho vay thì các khoản vay cần phải được quản lý một cách chủ động để đảm bảo sẽ được hoàn trả. Tuy nhiên trong thời gian qua các Ngân hàng Thương mại chưa thực hiện tốt công tác theo dõi nợ. Điều này một phần do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp còn lạc hậu, không cung cấp đầy đủ các thông tin mà Ngân hàng Thương mại yêu cầu.
- Ngân hàng quá nhấn mạnh đến lợi nhuận:
Ngân hàng quá chú trọng đến lợi nhuận, đặt chỉ tiêu lợi nhuận cao hơn mức độ an toàn của các khoản vay hoặc vì yếu tố cạnh tranh (Ngân hàng mong muốn có tỷ trọng cho vay tăng cao hơn đối thủ cạnh tranh, tìm cách thu hút khách hàng vay mà không tính toán kỹ lưỡng đến mức độ an toàn vốn), Ngân hàng đã không cân đối và xem xét cẩn thận giữa hai yếu tố an toàn và hiệu quả nên sẽ làm rủi ro dễ xảy ra.
- Sự hợp tác giữa các Ngân hàng Thương mại quá lỏng lẻo, vai trò của Trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng (CIC) chưa thực sự hiệu quả:
Kinh doanh Ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác “đi vay để cho vay”, do vậy vấn đề rủi ro trong tín dụng là không thể tránh khỏi, các Ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác này nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều Ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều Ngân hàng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không loại trừ một Ngân hàng nào.
Trong tình trạng cạnh tranh gay gắt như hiện nay giữa các Ngân hàng Thương mại thì vai trò trung tâm thông tin tín dụng là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các Ngân hàng có quyết định cho vay hợp lý. Nhưng trên thực tế thì hiện nay Ngân hàng dữ liệu của Trung tâm thông tin tín dụng chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa cập nhật được và xử lý kịp thời.
- Tính sai lầm trong nghiệp vụ:
+ Cho vay quá mức so với khả năng trả nợ vay của khách hàng. Do không phân tích, thẩm định kỹ khách hàng dẫn đến không đánh giá chính xác thực trạng khả năng tài chính, khả năng trả nợ của khách hàng.
+ Định kỳ hạn trả nợ cho các khoản vay không đúng thực tế, vì định hạn nợ rất quan trọng, thời điểm trả nợ phải là thời điểm có thu nhập. Nếu xác định kỳ hạn sai sẽ xảy ra hai trường hợp:
- Khách hàng có thu nhập sớm hơn thời điểm trả nợ cho nên số tiền thu được sẽ sử dụng vào mục đích khác, nên khi đáo hạn khách hàng không có tiền trả nợ cho Ngân hàng.
- Khách hàng có thu nhập sau thời điểm trả nợ, tất nhiên khách hàng không có tiền trả nợ cho Ngân hàng khi đến hạn dẫn đến phải gia hạn hoặc chuyển nợ quá hạn.
+ Các khoản tín dụng tùy tiện nhất là thành phần quen biết của Ngân hàng: do nể nang, nhân từ hay tham ô, hối lộ, thông đồng với khách hàng…mà cán bộ tín dụng cho cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có rủi ro cao vay.
+ Do sử dụng sai nguồn vốn: lấy vốn ngắn hạn cho vay dài hạn sẽ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán.
+ Không tuân thủ theo quy trình nghiệp vụ đã quy định.
+ Không sử dụng các hình thức đảm bảo tiền vay thích hợp để cho vay: với khách hàng nào, trường hợp nào thì sử dụng tín dụng không đảm bảo, trường hợp nào sử dụng tín dụng có đảm bảo. Đối với khách hàng chưa có độ tin cậy, Ngân hàng thường cho vay có đảm bảo.
Đối với Ngân hàng:
Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến thiệt hại cho Ngân hàng về lợi nhuận và tài sản:
- Về mặt tài chính: do không thu được nợ (gốc và lãi) Ngân hàng đã bị giảm doanh thu trong khi vẫn chi trả tiền lãi, lãi đầu vào của nguồn vốn huy động, gây mất cân đối trong thu chi nghiệp vụ.
Nợ quá hạn chính là hậu quả của Ngân hàng phải gánh chịu: không thu được nợ, vòng vay vốn tín dụng không được thực hiện. Ngân hàng không có khả năng đảm bảo vốn lưu động, hạn chế cả vai trò phục vụ lẫn chức năng kinh doanh của TDNH. Rủi ro tín dụng sẽ tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như: thiếu tiền chi trả cho khách hàng, lợi nhuận ngày càng giảm dẫn đến lỗ và mất khả năng thanh toán.
- Về mặt xã hội: từ rủi ro tín dụng đến rủi ro thanh khoản gây mất lòng tin, mất tín nhiệm trong nhân dân, gây tâm lý không ổn định khách hàng ồ ạt rút tiền ở Ngân hàng về.
Đối với chính quyền quản lý cấp trên của Ngân hàng bị mất lòng tin, không tin tưởng vào sự hoạt động của Ngân hàng cơ sở.
Do làm ăn thua lỗ, tâm lý của cán bộ nhân viên Ngân hàng chán nản, không tin tưởng vào năng lực tài chính của chính bản thân mình, một số nhân viên có năng lực xin chuyển công tác.
Đối với nền kinh tế
Hoạt động của ngân hàng có liên quan đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra có thể làm phá sản một vài ngân hàng, có khả năng lây lan các ngân hàng khác tạo ra sự phá sản của Ngân hàng mà đua nhau rút tiền ào ạt, tạo cho dân chúng một tâm lý sợ hãi nên đưa nhau đến ngân hàng rút tiền trước thời hạn. Điều đó có thể đưa đến phá sản hàng loạt các ngân hàng và sẽ tác động xấu đến nền kinh tế. Khi các Ngân hàng phá sản sẽ kéo theo một bộ phận, các xí nghiệp, doanh nghiệp, dân cư mất vốn làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống.
Rủi ro tín dụng là vấn đề chính phủ phải quan tâm, đặc biệt là NHTW phải khuyến cáo thường xuyên thông qua công tác kiểm tra, thanh tra, chiết khấu, tái chiết khấu và sẵn sàng tài trợ cho các ngân hàng thương mại khi có các biến cố rủi ro xảy ra. Tuy nhiên để hạn chế rủi ro và thiệt hại trong kinh doanh, thì các Ngân hàng phải là người thực hiện trực tiếp quản lý phòng ngừa rủi ro.