Một số giống dê được nuôi dưỡng
Dê cỏ là giống dê địa phương đã phát triển lâu đời ở nước ta, bộ lông có nhiều màu sắc, đa dạng. Giống dê Jamnapari Đây là giống dê cao và có tầm vóc lớn ở Ấn Độ. Sắc lông không đồng nhất nhưng chủ yếu là màu đen hay nâu. Tai dài và cụp có thể dài đến 25 – 31 cm; sống mũi nhô cao. Giống dê ...
Dê cỏ là giống dê địa phương đã phát triển lâu đời ở nước ta, bộ lông có nhiều màu sắc, đa dạng.
Giống dê Jamnapari
Đây là giống dê cao và có tầm vóc lớn ở Ấn Độ. Sắc lông không đồng nhất nhưng chủ yếu là màu đen hay nâu. Tai dài và cụp có thể dài đến 25 – 31 cm; sống mũi nhô cao. Giống dê này thích hợp cho hướng chăn thả hơn là nuôi giam. Jamnapari là giống dê kiêm dụng sữa thịt nhưng đang có xu hướng phát triển thành hướng chuyên sữa. Bầu vú và núm vú phát triển. Sản lượng sữa bình quân 1-3 kg/ngày, nhưng với tỉ lệ béo cao đến 5,2%. Cao vai từ 70 đến 100 cm với trọng lượng trưởng thành 65 – 75 kg. Giống dê này đang được phát triển nhanh ở vùng nhiệt đới nhất là ở Đông Nam Á, Tây Phi Châu. Giống dê này đã được nhập vào và phát triển tốt ở nước ta từ thời Pháp thuộc. Dê Jamnapari (bên trái)
Beetal
Là giống dê quan trọng ở lục địa Ấn Độ, miền Tây Pakistan và Bangladesh. Đặc điểm của dê Beetal là sống mũi lồi và tai dài lòng thòng, lông màu đỏ, thường có đốm trắng; sừng xoắn hướng ra sau. Cao vai trung bình 84 – 94 cm, trọng lượng trưởng thành của dê đực là 65 kg và dê cái là 45 kg. Dê Beetal hơi nhỏ con hơn giống Jamnapari, nhưng chịu đựng kham khổ hơn, trưởng thành sinh dục chậm hơn; thường sinh lứa đầu lúc 20 – 22 tháng tuổi với trọng lượng sơ sinh khoảng 1 kg. Sản lượng sữa bình quân 200 kg trong một chu kỳ 208 ngày ở Ấn Độ và một số cá thể tốt có thể đạt 4,5 kg sữa/ngày vào lúc cao điểm. Dê Beetal
Angora
Là giống dê chuyên cho lông với len Mohair có giá trị rất cao và nổi tiếng. Giống này có nguồn gốc từ Trung Quốc và được đưa vào Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ thứ 13. Có sản lượng len 1,5-3 kg/năm một số dê tốt có thể cho trên 5 kg với chiều dài đến 25 cm. Dê Angola có sừng cong hướng ra hai bên và ra phía sau. Dê Angora thường dễ bị xảy thai không truyền nhiễm do sự trao đổi chất trong sản xuất len. Giống dê này cò cao vai trung bình 54 – 60 cm. Dê Angora
Boer
Có nguồn gốc từ Nam Phi nên có tên khác là Africander và có ba dòng ở châu Phi:
– Dòng thông dụng: có tầm vóc trung bình với bộ lông ngắn và dày có màu trắng với đốm nâu trên vùng lông đỏ nâu ở cổ và mặt.
– Dòng lông dài có tầm vóc lớn hơn và trưởng thành sinh dục chậm hơn.
– Dòng không sừng, lông có nhiều màu và có hướng chuyên sữa.
Như vậy dê Boer là giống có thể sử dụng để sản xuất sữa, thịt và da. Sản lượng sữa bình quân 180 kg trong chu kỳ cho sữa 120 ngày nhưng với tỉ lệ béo cao đến 5,6%.
Giống dê Boer được tuyển chọn và cải thiện thành công trong thập niên gần đây ở Mỹ với kết quả là một giống dê Boer chuyên thịt có sắc lông màu trắng với vành lông đỏ và nâu ở cổ và đầu, Sống mũi nhô cao, sừng nổi rõ và tai rộng và sụp. Do cải thiện về di truyền nên dê Boer có bộ xương vững chắc và hệ cơ bắp phát triển, có sức sinh sản tốt, hơn 50% sinh đôi và 7% sinh ba đã được ghi nhận.
Giống dê này thích hợp với khẩu phần thức ăn tinh cao, tuy nhiên vẫn có thể chăn thả được. Hoạt động sinh đục đạt đến đỉnh cao vào mùa thu. Giống dê Boer chuyên thịt có trọng lượng trưởng thành ở con đực có thể đạt đến 160 kg và ở con cái là 115 kg. Tỉ lệ thịt xẻ có thể đạt trên 55% và nếu được nuôi đường tốt có thể hạ thịt lúc 6-8 tháng tuổi đạt trọng lượng khoảng 80 kg. Giống dê này đang được phát triển nhanh ở nhiều vùng như Bắc Mỹ do thịt có ít mỡ và trong mỡ có ít acid béo bão hòa và cholesterol so với bò và cừu. Giống dê này vừa được nhập vào nước ta từ Mỹ
Dê cỏ
Là giống dê địa phương đã phát triển lâu đời ở nước ta. Bộ lông có nhiều màu sắc, đa dạng. Theo các cuộc điều tra tại Thuận Hải và Long An đã cho thấy 30% lông trắng đốm nâu, 1,5% lông trắng, 3,5% lông trắng đốm đen, 25% lông đen và 40% có cả ba màu. Lông thô, sừng nhọn đưa về phía sau, tai nhỏ và đứng, đầu cổ thanh, chân thon nhỏ, thân hình gọn, bầu vú kém phát triển, đuôi ngắn; được nuôi để lấy thịt. Dê cỏ có tầm vóc nhỏ có trọng lượng trưởng thành 30 – 35 kg, cao vai 60 – 63 cm.
Dê Bách Thảo
Là giống dê kiêm dụng, do sự lai tạo giữa hai giống Beetal và Jamnapari do người Ấn và Hồi mang sang từ thời Pháp thuộc với dê cỏ. Dê Bách Thảo có thể có hay không có sừng, có sắc lông tương đối thuần nhất hơn dê cỏ: 60% lông đen và 40% lông đen đốm trắng. Lông dài và mượt, đa số có hai vệt lông trắng hay vàng chạy từ trán xuống má và viền trắng quanh tai, bốn chân trắng, sóng mũi nhỏ và cao, tai to và sụp, đầu thô và dài, bốn .chân cao, đuôi ngắn. Dê cái có bầu vú phát triển, núm vú to biểu hiện khả năng cho sữa tốt. Dê Bách Thảo có trọng lượng trưởng thành 39 – 45 kg và cao vai đạt 60 – 68 cm. Có một số dê đực Bách Thảo trưởng thành đạt 75 kg. Sản lượng sữa khoảng 150 kg trong chu kỳ 180 ngày, một số dê cái tốt có thể sản xuất trên 2,5 kg sữa/ngày vào lúc cao điểm.