Môi trường và phát triển-Phần I
Khái niệm về môi trường Khái niệm chung về môi trường Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt sau hội nghị Stockholm về môi trường 1972. Tuy nhiên ...
Khái niệm về môi trường
Khái niệm chung về môi trường
Môi trường là một khái niệm rất rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, đặc biệt sau hội nghị Stockholm về môi trường 1972. Tuy nhiên nghiên cứu về những khái niệm liên quan đến định nghĩa đưa ra trong luật bảo vệ môi trường của Việt nam, có những khái niệm đáng chú ý sau đây.
Một định nghĩa nổi tiếng của S.V.Kalesnik (1959, 1970): "Môi trường (được định nghĩa với môi trường địa lí) chỉ là một bộ phận của trái đất bao quanh con người, mà ở một thời điểm nhất định xã hội loài người có quan hệ tương hỗ trực tiếp với nó, nghĩa là môi trường có quan hệ một cách gần gũi nhất với đời sống và hoạt động sản xuất của con người" (xem S.V.Kalesnik: Các quy luật địa lí chung của trái đất. M.1970, tr. 209-212).
Một định nghĩa khác của viện sĩ I.P.Gheraximov (1972) đã đưa ra định nghĩa môi trường như sau: "Môi trường (bao quanh) là khung cảnh của lao động, của cuộc sống riêng tư và nghỉ ngơi của con người", trong đó môi trường tự nhiên là cơ sở cần thiết cho sự sinh tồn của nhân loại.
Gần đây trong báo cáo toàn cầu năm 2000, công bố 1982 đã nêu ra định nghĩa môi trường sau đây: "Theo tự nghĩa, môi trường là những vật thể vật lí và sinh học bao quanh loài người… Mối quan hệ giữa loài người và môi trường của nó chặt chẽ đến mức mà sự phân biệt giữa các cá thể con người với môi trường bị xoá nhoà đi".
Trong quyển "Địa lí hiện tại, tương lai. Hiểu biết về quả đất, hành tinh của chúng ta, Magnard. P, 1980", đã nêu ra khá đầy đủ khái niệm môi trường: "Môi trường là tổng hợp - ở một thời điểm nhất định - các trạng huống vật lí, hoá học, sinh học và các yếu tố xã hội có khả năng gây ra một tác động trực tiếp hay gián tiếp, tức thời hay theo kỳ hạn, đối với các sinh vật hay đối với các hoạt động của con người"
Trong Tuyên ngôncủa UNESCO năm 1981, môi trường được hiểu là "Toàn bộ các hệ thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra xung quanh mình, trong đó con người sinh sống và bằng lao động của mình đã khai thác các tài nguyên thiên nhiên hoặc nhân tạo nhằm thoả mãn các nhu cầu của con người".
Trong quyển: "Môi trường và tài nguyên Việt Nam" - NXB Khoa học và kỹ thuật, H., 1984, đã đưa ra định nghĩa: "Môi trường là một nơi chốn trong số các nơi chốn, nhưng có thể là một nơi chốn đáng chú ý, thể hiện các màu sắc xã hội của một thời kì hay một xã hội". Cũng có những tác giả đưa ra định nghĩa ngắn gọn hơn, chẳng hạn như R.G.Sharme (1988) đưa ra một định nghĩa: "Môi trường là tất cả những gì bao quanh con người".
Để thống nhất về mặt nhận thức, chúng ta sử dụng định nghĩa trong "Luật bảo vệ môi trường" đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khoá IX, kì họp thứ tư thông qua ngày 27 - 12 -1993 định nghĩa khái niệm môi trường như sau:
"Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên" (Điều 1. Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam)
Khái niệm chung về môi trường trên đây được cụ thể hoá đối với từng đối tượng và mục đích nghiên cứu khác nhau.
Môi trường sống
Đối với các cơ thể sống thì môi trường sống là tổng hợp những điều kiện bên ngoài như vật lí, hoá học, sinh học có liên quan đến sự sống. Nó có ảnh hưởng tới đời sống, sự tồn tại và phát triển của các cơ thể sống. Những điều kiện đó chỉ có trên trái đất, trình độ khoa học hiện nay chưa xác định được các hành tinh khác trong vũ trụ có môi trường phù hợp cho sự sống.
Môi trường sống của con người
Môi trường sống của con người trước hết phải là môi trường sống. Tuy nhiên đối với con người thì môi trường sống của con người là tổng hợp các điều kiện vật lí, hoá học, sinh học, xã hội bao quanh con người và có ảnh hưởng tới sự sống và phát triển của từng cá nhân, từng cộng đồng và toàn bộ loài người trên hành tinh. Như vậy nếu so sánh giữa môi trường sống và môi trường sống của con người thì môi trường sống của con người đòi hỏi nhuững điều kiện ràng buộc nghiêm ngặt hơn. Như vậy trên hành tinh trái đất không gian môi trường sống của con người cũng bị thu hẹp hơn.
Liên quan đến khái niệm môi trường, còn có khái niệm hệ sinh thái. Đó là hệ thống các quần thể sinh vật cùng sống và cùng phát triển trong một môi trường nhất định, có quan hệ tương tác với nhau và với môi trường đó.
Khi nghiên cứu môi trường, chúng ta thường sử dụng khái niệm đa dạng sinh học; đó là sự phong phú về nguồn gen, về giống, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên. Khi xem xét đa dạng sinh học được xét ở 3 cấp độ: cấp loài, cấp quần thể và quần xã
- Đối với đa dạng sinh học cấp loài, bao gồm toàn bộ các sinh vật sống trên trái đất, từ vi khuẩn đến các loài thực, động vật và các loài nấm.
- Ở cấp quần thể, đa dạng sinh học bao gồm sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể sống cách ly nhau về địa lí cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể.
- Đa dạng sinh học còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã mà trong đó các loài sinh sống và các hệ sinh thái, nơi mà các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của các môi trường tương tác giữa chúng với nhau.
Các thành phần của Môi trường
Thành phần môi trường hết sức phức tạp, trong môi trường chứa đựng vô số các yếu tố hữu sinh và vô sinh, vì vậy khó mà diễn đạt hết các thành phần môi trường.
Ở tầm vĩ mô để xét thì thành phần môi trường có thể chia ra 5 quyển sau đây.
- Khí quyển: khí quyển là vùng nằm ngoài vỏ trái đất với chiều cao từ 0 - 100 km. Trong khí quyển tồn tại các yếu tố vật lý như nhiệt, áp suất, mưa, nắng, gió, bão. Khí quyển chia thành nhiều lớp theo độ cao tính từ mặt đất, mỗi lớp có các yếu tố vật lý, hóa học khác nhau. Tầng sát mặt đất có các thành phần:
Khoảng 79% là Nitơ; 20% oxy; 0,93% Argon; 0,02% Ne; 0,03% CO2; 0,005% He; một ít Hydro, trong không khí còn có hơi nước và bụi.
Khí quyền là bộ phận quan trọng của môi trường, nó được hình thành sớm nhất trong quá trình kiến tạo trái đất.
- Thạch quyển: Điạ quyển chỉ phần rắn của trái đất có độ sâu từ 0 - 60 km tính từ mặt đất và độ sâu từ 0 - 20km tính từ đáy biển. Người ta gọi đó là lớp vỏ trái đất
Thạch quyển chứa đựng các yếu tố hoá học, như các nguyên tố hoá học, các hợp chất rắn vô cơ, hữu cơ.
Thạch quyển là cơ sở cho sự sống.
- Thuỷ quyển : Là nguồn nước dưới mọi dạng. Nước có trong không khí, trong đất, trong ao hồ, sông, biển và đại dương. Nước còn ở trong cơ thể sinh vật.
Tổng lượng nước trên hành tinh khoảng 1,4 tỷ Km3, nhưng khoảng 97% trong đó là ở đại dương, 3% là nước ngọt, tập trung phần lớn ở các núi băng thuộc bắc cực và Nam cực. Như vậy lượng nước ngọt mà con người có thể sử dụng được chiếm tỷ lệ rất ít của thuỷ quyển.
Nước là thành phần môi trường cực kỳ quan trọng, con người cần đến nước không chỉ cho sinh lý hàng ngày mà còn cho hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ ở mọi lúc mọi nơi.
- Sinh quyển: Sinh quyển bao gồm các cơ thể sống (các loài sinh vật) và những bộ phận của thạch quyển, Thủy quyển và Khí quyển tạo nên môi trường sống của các cơ thể sống. Ví dụ các vùng rừng, ao hồ, đầm lầy, nơi đang tồn tại sự sống.
Sinh quyển có các thành phần hữu sinh và vô sinh quan hệ chặt chẽ và tương tác phức tạp với nhau. Đặc trưng cho hoạt động của sinh quyển là các chu trình trao đổi chất và các chu trình năng lượng.
- Trí quyển: Từ khi xuất hiện con người và xã hội loài người, do bộ não người ngày càng hoàn thiện nên trí tuệ con người ngày càng phát triển, nó được coi như công cụ sản xuất chất xám đã tạo nên một lượng vật chất to lớn, làm thay đổi diện mạo của hành tinh chúng ta.
Chính vì vậy, ngày nay người ta thừa nhận sự tồn tại của một quyển mới, là trí quyển (Noosphere), bao gồm các bộ phận trên trái đất, tại đó có tác động của trí tuệ con người. Trí quyển là một quyển năng động.
Sự phân chia cấu trúc của môi trường thành các quyển trên đây cũng rất tương đối. Thực ra trong lòng mỗi quyển đều có mặt các phần quan trọng của quyển khác, chúng bổ sung cho nhau rất chặt chẽ.
Bản chất hệ thống của môi trường
Các định nghĩa môi trường nêu trên, tuy có khác nhau về quy mô, giới hạn, thành phần môi trường v.v…, nhưng đều thống nhất ở bản chất hệ thống của môi trường và mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Dưới ánh sáng của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại, môi trường cần được hiểu như là một hệ thống. Nói cách khác, môi trường mang đầy đủ những đặc trưng của hệ thống.
Những đặc trưng cơ bản của hệ thống môi trường là:
Tính cơ cấu (cấu trúc) phức tạp
Hệ thống môi trường (gọi tắt là hệ môi trường) bao gồm nhiều phần tử (thành phần) hợp thành. Các phần tử đó có bản chất khác nhau (tự nhiên, kinh tế, dân cư, xã hội) và bị chi phối bởi các quy luật khác nhau, đôi khi đối lập nhau.
Cơ cấu của hệ môi trường được thể hiện chủ yếu ở cơ cấu chức năng và cơ cấu bậc thang. Theo chức năng, người ta có thể phân hệ môi trường ra vô số phân hệ. Tương tự như vậy, theo thứ bậc (quy mô), người ta cũng có thể phân ra các phân hệ từ lớn đến nhỏ.
Dù theo chức năng hay theo thứ bậc, các phần tử cơ cấu của hệ môi trường thường xuyên tác động lẫn nhau, quy định và phụ thuộc lẫn nhau (thông qua trao đổi vật chất - năng lượng - thông tin) làm cho hệ thống tồn tại, hoạt động và phát triển. Vì vậy, mỗi một sự thay đổi, dù là rất nhỏ, của mỗi phần tử cơ cấu của hệ môi trường đều gây ra một phản ứng dây chuyền trong toàn hệ, làm suy giảm hoặc gia tăng số lượng và chất lượng của nó.
Tính động
Hệ môi trường không phải là một hệ tĩnh, mà luôn luôn thay đổi trong cấu trúc, trong quan hệ tương tác giữa các phần tử cơ cấu và trong từng phần tử cơ cấu. Bất kì một sự thay đổi nào của hệ đều làm cho nó lệch khỏi trạng thái cân bằng trước đó và hệ laị có xu hướng lập lại thế cân bằng mới. Đó là bản chất của quá trình vận động và phát triển của hệ môi trường. Vì thế, cân bằng động là một đặc tính cơ bản của môi trường với tư cách là một hệ thống. Đặc tính đó cần được tính đến trong hoạt động tư duy và trong tổ chức thực tiễn của con người.
Tính mở
Môi trường, dù với quy mô lớn nhỏ như thế nào, cũng đều là một hệ thống mở. Các dòng vật chất, năng lượng và thông tin liên tục "chảy" trong không gian và thời gian (từ hệ lớn đến hệ nhỏ, từ hệ nhỏ đến hệ nhỏ hơn và ngược lại: từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ thế hệ này sang thế hệ nối tiếp, v.v…). Vì thế, hệ môi trường rất nhạy cảm với những thay đổi từ bên ngoài, điều này lý giải vì sao các vấn đề môi trường mang tính vùng, tính toàn cầu, tính lâu dài (viễn cảnh) và nó chỉ được giải quyết bằng nỗ lực của toàn thể cộng đồng, bằng sự hợp tác giữa các quốc gia, các khu vực trên thế giới với một tầm nhìn xa, trông rộng vì lợi ích của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.
Khả năng tự tổ chức và điều chỉnh
Trong hệ môi trường, có các phần tử cơ cấu là vật chất sống (con người, giới sinh vật) hoặc là các sản phẩm của chúng. Các phần tử này có khả năng tự tổ chức lại hoạt động của mình và tự điều chỉnh để thích ứng với những thay đổi bên ngoài theo quy luật tiến hoá, nhằm hướng tới trạng thái ổn định.
Đặc tính cơ bản này của hệ môi trường quy định tính chất, mức độ, phạm vi can thiệp của con người, đồng thời tạo mở hướng giải quyết căn bản, lâu dài cho các vấn đề môi trường cấp bách hiện nay (tạo khả năng tự phục hồi của các tài nguyên sinh vật đã suy kiệt, xây dựng các hồ chứa và các vành đai cây xanh, nuôi trồng thuỷ và hải sản, v.v…)
Phân loại môi trường
Tùy theo mục đích nghiên cứu và sử dụng, có nhiều cách phân loại môi trường khác nhau. Có thể phân loại môi trường theo các dấu hiệu đặc trưng sau đây:
Theo chức năng
- Môi trường tự nhiên:
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố của tự nhiên tồn tại khách quan ngoài ý muốn của con người như không khí, đất đai, nguồn nước, ánh sáng mặt trời, động thực vật… Môi trường tự nhiên cung cấp các nguồn tài nguyên tự nhiên cho ta như không khí để thổ, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cây, chăn nuôi, các loại khoáng sản cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp giải trí tăng khả năng sinh lý của con người.
-Môi trường xã hội:
Môi trường xã hội là tổng hợp các quan hệ giữa người với người. Đó là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định, hương ước… ở các cấp khác nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ nhóm, các tổ chức tôn giáo, tổ chức toàn thể… Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác.
-Môi trường nhân tạo
Môi trường nhân tạo bao gồm các nhân tố do con người tạo nên, làm thành những tiện nghi cho cuộc sống của con người như ô tô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu vực đô thị, công viên nhân tạo, các khu vui chơi giải trí v.v…
Theo quy mô:
Theo quy mô chủ yếu người ta phân loại môi trường theo không gian Địa lý như môi trường toàn cầu, môi trường khu vực, môi trường quốc gia, môi trường vùng, môi trường địa phương.
Theo mục đích nghiên cứu sử dụng
- Mục đích nghiên cứu sử dụng theo nghĩa rộng, môi trường bao gồm tất cả các nhân tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho sự sống, sản xuất của con người như tài nguyên thiên nhiên, không khí, đất, nước, ánh sáng, cảnh quan, các quan hệ xã hội… tức là gắn liền việc sử dụng tài nguyên với chất lượng môi trường.
- Mụcđích nghiên cứu sử dụng theo nghĩa hẹp:
Môi trường theo nghĩa hẹp thường chỉ xét tới những nhân tố tự nhiên và xã hội trực tiếp liên quan tới chất lượng cuộc sống của con người.
Theo thành phần
- Phân loại theo thành phần của tự nhiên người ta thường chia ra:
+ Môi trường không khí
+ Môi trường đất
+ Môi trường nước
+ Môi trường biển
- Phân loại theo thành phần của dân cư sinh sống người ta chia ra:
+ Môi trường thành thị
+ Môi trường nông thôn
Ngoài 2 cách phân loại trên có thể còn có các cách phân loại khác phù hợp với mục đích nghiên cứu, sử dụng của con người và sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, dù bất cứ cách phân loại nào thì cũng đều thống nhất ở một sự nhận thức chung: Môi trường là tất cả những gì có xung quanh ta, cho ta cơ sở để sống và phát triển.
Vai trò của môi trường đối với con người
Đối với một cá thể con người, cũng như đối với cộng đồng con người và cả xã hội loài người, môi trường sống có ba chức năng.
- Môi trường là nơi cung cấp nguồn tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người.
- Môi trường là nơi chứa đựng các phế thải do con người tạo ra trong cuộc sống và sản xuất của mình.
- Môi trường là không gian sống, cung cấp các dịch vụ cảnh quan thiên nhiên.
Môi trường là nơi cung cấp tài nguyên
Tài nguyên thiên nhiên bao gồm cả tài nguyên tái tạo, tài nguyên không tái tạo và các dạng thông tin mà con người khai thác, sử dụng đều chứa đựng trong môi trường.
Tài nguyên thiên nhiên có trong thạch quyển, thủy quyển, khí quyển và trong sinh quyển. Khi mà con người chưa đến được các hành tinh khác để tìm kiếm các nguồn tài nguyên mới, thì nơi con người có thể khai thác tài nguyên chỉ có trong môi trường của chúng ta. Hàng năm con người khai thác tài nguyên nhiều thêm, do nhu cầu vật chất ngày càng tăng về số lượng và chất lượng.
Bảng 1.1. Mức khai thác dầu mỏ, khí đốt, khoáng sản của thế giới từ năm 1950 đến 1994.
Tài nguyên | ||||||
Năm | ||||||
1950 | 1960 | 1970 | 1980 | 1990 | 1994 | |
Dầu thô(106 tấn) | 518 | 1049 | 2281 | 2976 | 2963 | 2953 |
Khí thiên nhiên(106 tấn) | 180 | 442 | 989 | 1459 | 2005 | 2128 |
Than đá(106 tấn) | 884 | 1271 | 1359 | 1708 | 2109 | 2083 |
Nguồn: “Tín hiệu sống còn” – 1995 – Viện Tầm nhìn thế giới
NXB Khoa học kỹ thuật
Với đà tăng hàng năm về nhu cầu nhiên liệu và nguyên liệu của thế giới, các ước tính đã phỏng đoán nhiều loại khoáng sản sẽ cạn kiệt vào thế kỷ tới, nếu nhân loại không tìm được các nguồn cung cấp và nguyên liệu thay thế khác.
Môi trường với chức năng là nơi chứa phế thải
Trong mọi hoạt động của con người từ quá trình khai thác tài nguyên cho sản xuất chế biến tạo ra sản phẩm, đến quá trình lưu thông và tiêu dùng đều có phế thải.
Phế thải bao gồm nhiều dạng, nhưng chủ yếu chúng được tồn tại ở ba dạng là phế thải dạng khí, dạng rắn, dạng lỏng. Ngoài ra còn có các dạng khác như nhiệt, tiếng ồn, hóa chất nguyên tử, phân tử, hợp chất... Và tất cả các phế thải đều đưa vào môi trường.
Trong xã hội chưa công nghiệp hoá, mật độ dân số thấp, các phế thải thường được tái sử dụng. Thí dụ các chất bài tiết được dùng làm phân bón, các phế thải từ nông sản, lâm sản được dùng làm thức ăn cho gia súc, nhiên liệu. Những cái không thể tái sử dụng, tái chế thường được phân huỷ tự nhiên bởi các sinh vật và vi sinh vật, sau một thời gian ngắn để trở lại thành những hợp chất hoặc nguyên tố dùng làm nguyên liệu cho các quá trình sản xuất mới.
Trong xã hội công nghiệp hoá, mật độ dân số cao, lượng phế thải thường rất lớn, không đủ nơi chứa đựng, quá trình tự phân huỷ không theo kịp so với lượng chất thải tạo ra. Hay người ta thường gọi lượng chất thải vượt quá mức chịu tải của môi trường. Đây là nguyên nhân cơ bản gây ra những biến đổi về môi trường.
Bảng 1.2: Mức thải Các bon, Lưu huỳnh và Ni tơ đã từ năm 1950 đến năm 1994.
Tài nguyên | ||||||
Năm | ||||||
1950 | 1960 | 1970 | 1980 | 1990 | 1994 | |
Các bon (106 tấn) | 1620 | 2543 | 4006 | 5172 | 5941 | 5925 |
Ni tơ (106 tấn) | 6,8 | 11,8 | 18,1 | 22,3 | 26,3 | 26,5 |
Lưu huỳnh (106 tấn) | 30,1 | 46,2 | 57,0 | 62,9 | 68,7 | 68,7 |
CFC (103 tấn) | 42 | 150 | 640 | 880 | 820 | 295 |
Nguồn: “Tín hiệu sống còn” - 1995 - Viện Tầm nhìn thế giới
NXB Khoa học kỹ thuật
Môi trường với chức năng là không gian sống và cung cấp các dịch vụ cảnh quan
Con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong không gian môi trường, môi trường là nơi duy nhất cho con người được hưởng các cảnh đẹp thiên nhiên, thư thái về tinh thần, thoả mãn các nhu cầu tâm lý.
Không gian môi trường mà con người tồn tại trải qua hàng tỷ năm nay không hề thay đổi về độ lớn, có nghĩa không gian môi trường là hữu hạn. Trong khi đó dân số loài người trên trái đất đã và đang tăng lên theo cấp số nhân. Như vậy vô hình chung không gian môi trường mỗi người được hưởng sẽ giảm xuống và chất lượng suy giảm nhanh chóng. Sự thoả mãn các nhu cầu dịch vụ của con người cũng giảm theo dần.
Bảng 1.3: Dân số thế giới và diện tích trên đầu người qua các năm
Năm | -106 | -105 | -104 | 0 | 1650 | 1840 | 1930 | 1994 | 2010 |
Dân số (106 người) | 0,125 | 1,0 | 5,0 | 200 | 545 | 1000 | 2000 | 5000 | 7000 |
Diện tích (ha/người) | 120.000 | 15000 | 3000 | 75 | 27,55 | 15 | 7,5 | 3,0 | 1,88 |
Nguồn: Cơ sở khoa học môi trường –1995 - Lê Thạc Cán
Với đà tăng dân số như hiện nay thì dân số thế giới sẽ đạt 8 tỷ vào năm 2020. Dân số tăng nhanh là thách thức to lớn, nó kéo theo nhiều vấn đề môi trường phức tạp.
Quan hệ tương tác giữa kinh tế và môi trường
Mối quan hệ tương tác giữa kinh tế và môi trường là một biểu hiện cụ thể của mối quan hệ tương tác rộng lớn hơn, bao trùm hơn, thường xuyên hơn và xuyên suốt mọi thời đại kể từ khi xuất hiện xã hội con người trên hành tinh chúng ta. Đó là mối quan hệ tương tác giữa con người, xã hội và tự nhiên. Mối quan hệ tương tác đó là một trong những hiện tượng chủ yếu của lịch sử thế giới vật chất của hành tinh Trái đất, là hiện tượng có ý nghĩa vô cùng vĩ đại, mang tính vũ trụ mà những kết quả
cuối cùng của nó chúng ta còn chưa thể nào nhìn thấy và tiên đoán được. Hiện tượng này đã từng được các thế hệ tiền bối nghiên cứu, đang được thế hệ đương đại nghiên cứu nhiều và sẽ được các thế hệ tương lai nghiên cứu sâu hơn để hiểu biết thấu đáo hơn. Vấn đề này sẽ tồn tại mãi mãi, không bao giờ kết thúc, bởi vì chúng ta chỉ tiệm cận đến chân lý mà thôi.
Mối quan hệ tương tác giữa con người, xã hội và tự nhiên là đề tài nghiên cứu của hàng loạt khoa học: triết học, lịch sử, địa lý, địa chất, sinh học, kinh tế học, kinh tế chính trị và rất nhiều khoa học khác. Có thể nói rằng, đây là một trong những đề tài đa diện và đa chiều nhất của khoa học hiện đại. Về mặt triết học, đề tài này đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặt ra nghiên cứu. Và mặc dù cho đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, song những tiền đề, những giải pháp có tính nguyên tắc cho vấn đề cực kỳ rộng lớn và phức tạp này của các nhà kinh tế của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thực tiễn. Sự phát triển nhanh chóng của xã hội, của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, quá trình quốc tế hoá kinh tế và đời sống xã hội, v.v… đã đem lại rất nhiều mới lạ cho mối quan hệ tương tác giữa con người , xã hội và tự nhiên. Điều đó, tất yếu dẫn đến việc xem xét lại vấn đề này ở một trình độ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cao hơn, cập nhật hơn nhằm làm phong phú thêm những nguyên tắc, nguyên lý khoa học mới bằng những hiểu biết sâu sắc hơn, những ý tưởng táo bạo và thú vị hơn.
Ở đây, chúng ta không cần thiết phải phân tích toàn bộ các khía cạnh của vấn đề quan hệ tương tác giữa con người, xã hội và tự nhiên, mà chỉ dừng lại ở sự phân tích mối quan hệ tương tác kinh tế và môi trường - phần cốt lõi nhất của mối quan hệ tương tác rộng lớn và phức tạp nêu trên.
Hệ thống môi trường bao gồm các thành phần môi trường với chức năng cơ bản là nguồn cung cấp tài nguyên cho con người, là nơi chứa đựng phế thải, là không gian sống cho con người. Các khả năng này của hệ thống môi trường là hữu hạn. Hệ thống kinh tế luôn luôn diễn ra các quá trình khai thác tài nguyên (R-Resourse), chế biến nguyên liệu (P-Production), và phân phối để tiêu dùng. (C-Consumer).
Như vậy hoạt động của hệ thống kinh tế tuân theo chu trình sau:
RPC
Tài nguyên (R) được con người khai thác từ môi trường như khoáng sản, dầu mỏ, than, gỗ củi… như vậy tài nguyên là nguyên liệu và năng lượng đầu vào cho hệ thống kinh tế.
Tài nguyên sau khi khai thác được chế biến thành các sản phẩm phù hợp với mục tiêu của con người, quá trình này được gọi là quá trình sản xuất (P).
Các sản phẩm sẽ được phân phối để tiêu dùng (C). Trong quá trình chuyển đổi năng lượng này đều kèm theo các chất thải vào môi trường. Các chất thải từ quá trình khai thác (WR), đó là các dạng tài nguyên khai thác nhưng không được đưa vào hệ thống kinh tế.
Các chất thải từ quá trình sản xuất, chế biến tài nguyên (WP), là không tránh khỏi vì trên thực tế chưa có công nghệ chế biến nào đạt hiệu suất sử dụng nguyên liệu 100%.
Các chất thải từ quá trình tiêu dùng các sản phẩm (WC), chất thải bao gồm các dạng lỏng, khí và rắn.
RPCWRWPWCRPC
Tổng lượng thải từ hệ thống kinh tế sẽ là W
W = WR + WP + WC
Hoạt động của hệ thống kinh tế tuân theo định luật thứ nhất nhiệt động học, đó là năng lượng và vật chất không mất đi và không tự sinh ra, chỉ chuyển từ dạng này sang dạng khác. Cũng chính từ quy luật đó cho thấy tài nguyên mà con người khai thác càng nhiều thì chất thải càng tăng.
Trên cơ sở phân tích đó cho chúng ta nhận xét về mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế. Hệ thống kinh tế lấy tài nguyên (R) từ hệ thống môi trường càng nhiều thì chất thải (W) từ hệ thống kinh tế đưa vào môi trường càng lớn.
R = W = WR + WP + WC
Tóm lại chức năng cơ bản của bất kỳ một hệ thống kinh tế nào như sản xuất, phân phối và tiêu thụ cũng đều diễn ra trong lòng thế giới tự nhiên bao quanh. Thế giới tự nhiên đóng vai trò cung cấp nguyên liệu và năng lượng. Không có nguyên liệu và năng lượng thì không thể có sản xuất và tiêu thụ. Do đó, hệ thống kinh tế tác động lên thế giới tự nhiên trước hết thông qua việc khai thác và sử dụng nguồn nguyên liệu và năng lượng sẵn có trong tự nhiên. Mặt khác, các hoạt động sản xuất và tiêu thụ cũng thường xuyên sản sinh ra các chất thải, mà sớm hay muộn, chúng sẽ "tìm đường trở về" với thế giới tự nhiên bao quanh. Xem sơ đồ 1.1.
Sơ đồ 1.1. Hệ kinh tế và môi trường
Tuỳ theo các chất thải được sử dụng như thế nào, các chất thải này có thể dẫn đến ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường tự nhiên. Mối quan hệ cơ bản này có thể được minh hoạ bằng sơ đồ 1.2.
Sơ đồ 1.2
Mối quan hệ giữa kinh tế tài nguyên và kinh tế chất thải
Nguồn: Bary C.Field. Environmental Economics: An introduction. 1994, p.21
Trong sơ đồ 1.2, ký hiệu R thể hiện dòng tài nguyên đi vào sản xuất và tiêu thụ. Nghiên cứu vai trò cung cấp tài nguyên của thế giới tự nhiên được gọi là kinh tế tài nguyên thiên nhiên (hay gọi tắt là kinh tế tài nguyên). Ký hiệu W cho thấy tác động của hoạt động kinh tế đến chất lượng của môi trường tự nhiên. Nghiên cứu dòng chất thải và tác động của chúng đến thế giới tự nhiên được coi là kinh tế chất thải. Kiểm soát ô nhiễm là một chủ đề quan trọng, nhưng không phải là duy nhất của kinh tế môi trường. Tác động của con người đến môi trường vô cùng đa dạng và bằng nhiều cách không phải là ô nhiễm hiểu theo nghĩa truyền thống, theo nghĩa cổ điển. Chẳng hạn, sự phá hoại môi trường sống do phát triển nhà ở gây nên không liên quan gì với việc thải các chất ô nhiễm đặc trưng cả.
Dưới đây, chúng ta sẽ đề cập đến việc quản lý các dòng chất thải và tác động của hoạt động con người đến các tài nguyên môi trường. Tuy nhiên, trong thực tế, rất nhiều vấn đề này lại có nguồn gốc sâu xa từ tác động qua lại nguyên thuỷ giữa con người, xã hội và tự nhiên. Vì thế, để hiểu rõ hơn, chúng ta sẽ điểm qua những nội dung chủ yếu của kinh tế tài nguyên.
Khái niệm về tài nguyên
Dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, khái niệm tài nguyên được mở rộng ra trên nhiều lĩnh vực hoạt động của con người.
Hiểu theo nghĩa rộng, tài nguyên bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, nhiên liệu - năng lượng, thông tin có trên Trái Đất và trong không gian vũ trụ liên quan mà con người có thể sử dụng cho mục đích tồn taị và phát triển của mình.
Với nhận thức mới nhất hiện nay, người ta định nghĩa tài nguyên như sau:
"Tài nguyên là tất cả các dạng vật chất, phi vật chất và tri thức được sử dụng để tạo ra của cải vật chất, hoặc tạo ra giá trị sử dụng mới cho con người"
Như vậy, theo quan niệm mới này tài nguyên là đối tượng sản xuất của con người. Xã hội loài người càng phát triển, số loại hình tài nguyên và số lượng mỗi loại tài nguyên được con người khai thác ngày càng tăng.
Trong khuôn khổ của giáo trình, chúng ta chỉ xem xét tới các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Phân loại tài nguyên thiên nhiên.
Hiện nay Quan điểm của các Nhà Kinh tế học môi trương đều thống nhất cách phân loại tài nguyên thien nhiên như sau:Theo khả năng tái sinh và không có khả năng tái sinh
- Tài nguyên có khả năng tái sinh là những tài nguyên có thể tự duy trì hoặc bổ sung một cách liên tục khi được quản lý hợp lý. Tuy nhiên nếu sử dụng, không hợp lý, tài nguyên này cũng có thể bị cạn kiệt và không thể tái sinh nữa. Ví dụ các giống loài thực vật, động vật bị giảm sút và tuyệt chủng.
- Tài nguyên không có khả năng tái sinh là những nguồn tài nguyên có một mức độ giới hạn nhất định trên trái đất, chúng ta chỉ được khai thác chúng ở dạng nguyên khai một lần, đối với loại tài nguyên này được chia thành ba nhóm:
+ Tài nguyên không có khả năng tái sinh nhưng tạo tiền đề cho tái sinh, ví dụ như đất, nước tự nhiên....
+ Tái nguyên không có khả năng tái sinh nhưng tái tạo. Ví dụ như kim loại, thủy tinh, chất dẻo...
+ Tài nguyên cạn kiệt. Ví dụ như than đá, dầu khí....
Hình 1.1 . Sơ đồ thể hiện phân loại nguồn tài nguyên tự nhiên
Kinh tế tài nguyên
Sống trong xã hội hiện đại, đôi khi chúng ta quên mất rằng, hoạt động kinh tế sử dụng rất nhiều tài nguyên thiên nhiên ở đầu vào. Nhưng rồi, thực tiễn trong những năm gần đây đã nhắc chúng ta nhớ đến tầm quan trọng của các nguồn năng lượng từ hoá thạch như than đá, dầu mỏ và khí thiên nhiên. Nền công nghiệp hoá - dầu đồ sộ đã tạo dựng cũng dựa vào các nguồn tài nguyên này. Lượng vật tư rất lớn sử dụng trong các nước công nghiệp và cả trong xã hội mang tên là "xã hội thông tin" đều do nhiều tài nguyên khoáng sản và tài nguyên rừng cung cấp. Nước là đầu vào thiết yếu của nhiều quy trình sản xuất đồng thời là nguồn tài nguyên được các hộ gia đình trực tiếp tiêu thụ. Sản xuất thực phẩm phụ thuộc vào cơ sở tài nguyên thiên nhiên, hoặc là thu hoạch trực tiếp như đánh bắt cá, hoặc là cung cấp những đầu vào thiết yếu để cho thực vật và động vật tăng trưởng. Không khí cũng là đầu vào thiết yếu của hầu hết các quy trình sản xuất.
Như chúng ta đã chỉ ra trong cách phân loại tài nguyên, về cơ bản tài nguyên gồm hai nhóm : phục hồi được và không phục hồi được. Những tài nguyên sinh vật là những tài nguyên có thể phục hồi được: chúng lớn lên cùng thời gian theo các quá trình sinh học. Những tài nguyên không phục hồi được là những tài nguyên mỗi khi đã sử dụng là hết, không có cách gì hoàn trả lại, không có quy trình nào làm đầy lại được. Ví dụ như các nguồn dầu mỏ và khoáng sản không cung cấp năng lượng. Một số nguồn tài nguyên nhất định như nhiều mạch nước ngầm có tốc độ làm đầy thấp đến mức được coi như là không phục hồi được.
Có một nguồn tài nguyên mà chỉ gần đây mới được con người thừa nhận là đa dạng sinh học. Nguồn tài nguyên này tồn tại không chỉ ở trong một chất, mà trong một tập hợp các yếu tố thành phần. Các nhà sinh học ước lượng rằng, hiện nay trên thế giới có thể có đến 30 triệu giống loài sinh vật, chúng đại diện cho một nguồn rộng lớn và quan trọng của thông tin di truyền hữu ích đối với sự phát triển thuốc men, thuốc trừ vật hại thiên nhiên, các loài thực và động vật có sức đề kháng cao, v.v… Hoạt động của con người đã làm cho tốc độ tuyệt chủng của các giống loài tăng nhanh. Vì vậy, giữ gìn môi trường sống và bảo tồn giống loài đã trở thành một trong những vấn đề môi trường cấp bách nhất hiện nay.
Một trong những đặc điểm để phân biệt hầu hết các nguồn tài nguyên thiên nhiên là chúng "phụ thuộc nhiều vào thời gian", điều này có nghĩa là việc sử dụng chúng kéo dài quá thời gian thu hoạch, cho nên tỷ lệ sử dụng trong thời kỳ này sẽ ảnh hưởng đến sự có sẵn và tỷ lệ sử dụng trong thời kỳ sau. Đối với các tài nguyên không phục hồi, điều này tương đối dễ nhận biết. Chẳng hạn, dầu được hút ra khỏi các mỏ dầu năm nay nhiều bao nhiêu thì sẽ càng khó thu được dầu hơn trong những năm sau đó! Mối quan hệ giữa lợi ích hiện tại và lợi ích tương lai cũng xẩy ra đối với các tài nguyên có thể phục hồi được. Chẳng hạn, nên tính toán xem có thể đánh bắt bao nhiêu cá hiện nay để không làm ảnh hưởng đến sản lượng đánh bắt trong những năm sau, hay là, nên tính toán xem, khai thác gỗ năm nay hay là chờ một vài năm nữa cho cây đủ lớn, đủ cao rồi mới khai thác.
Rõ ràng, đây là những vấn đề có tầm vóc "liên thời gian" rộng lớn, bao gồm các mối quan hệ giữa hiện tại và tương lai. Một số vấn đề môi trường cũng có đặc trưng tương tự như vậy, đặc biệt là khi giải quyết các chất ô nhiễm đang tích tụ hoặc các chất ô nhiễm cần có thời gian để tiêu huỷ. Trên thực tế, cái đang bị suy giảm đi ở đây chính là "khả năng đồng hoá" của Trái Đất, tức là khả năng của hệ thống tự nhiên có thể chấp nhận được một số chất ô nhiễm nhất định và làm cho chúng trở nên hữu ích hoặc vô hại.
Một đặc điểm của thế giới hiện đại là ranh giới giữa tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên môi trường, trong nhiều trường hợp, đang bị xoá nhoà. Nhiều quy trình khai thác tài nguyên như khai thác gỗ, khai thác mỏ có những ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng môi trường. Ngược lại, cũng có nhiều ví dụ về ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường có tác động đến các quy trình khai thác tài nguyên. Ô nhiễm nước ở cửa sông cản trở sự bổ sung nguồn cá hay ô nhiễm không khí làm giảm sản lượng nông nghiệp. Một thứ khác, chẳng hạn như đời sống hoang dã, có thể được coi vừa là tài nguyên thiên nhiên, vừa là thuộc tính của môi trường. Mặc dù khó có thể minh định rạch ròi tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên môi trường, nhưng các nhà kinh tế cũng đã phân biệt giữa hai dịch vụ của thế giới tự nhiên: là nguyên liệu và môi trường.
Cân bằng vật chất và chất lượng môi trường
Sơ đồ 1. 2: Cân bằng vật chất và quan hệ giữa kinh tế và môi trường
Môi trường thiên nhiênNgười sản xuấtNgười tiêu thụNguyênLiệuChất thải (RP)Hàng hoá (G)Chất thải(RC)Thải bỏ (RPd)Thải bỏ(RCd)Đã tái tuần hoàn (Rrp)Đã tái tuần hoàn (Rrc)Môi trường thiên nhiên
Nguồn: Phiên bản từ Barry C. Field. Environmental Economics:
an introduction. 1994, p.24
Thông qua sơ đồ 2 cho thấy một biểu hiện phức tạp hơn về mối quan hệ giữa kinh tế và môi trường thông qua biến đổi của dòng vật chất. Trong sơ đồ này cho ta thấy, những yếu tố ở bên trong hình bầu dục là các bộ phận của hệ thống kinh tế. Toàn bộ các yếu tố đó, về cơ bản, được bao bọc bên trong môi trường tự nhiên. Kinh tế học được chia ra thành hai phân đoạn lớn: "người sản xuất" và "người tiêu thụ". "Người sản xuất" bao gồm toàn bộ các hãng, công ty thu nạp và chuyển hoá những đầu vào thành những đầu ra hữu ích. Ngoài ra, "người sản xuất" còn bao gồm những đơn vị khác như các hãng / công ty công cộng, các tổ chức không lợi nhuận và các công ty sản xuất dịch vụ như vận tải. Tóm lại, "người sản xuất" là tất cả các thực thể kinh tế trong hệ thống cho đến bản thân "người tiêu thụ".
Những đầu vào chủ yếu của khu vực sản xuất lấy từ môi trường tự nhiên là các vật tư ở dạng tự nhiên là các vật tư ở dạng nhiên liệu, khoáng sản và gỗ, chất lỏng như nước và dầu mỏ, nhiều loại khí như khí tự nhiên và ô xy. Tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ đều bắt nguồn từ các vật tư nhờ sử dụng năng lượng đưa vào. Như vậy, hàng hoá và dịch vụ đã được sản xuất ra chính là hiện thân của một phần nguồn vật chất và năng lượng này để rồi sau đó hướng đến "người tiêu thụ". "Người tiêu thụ" cũng có thể sử dụng nguồn vật chất và năng lượng lấy trực tiếp từ tự nhiên mà không qua khâu trung gian (người sản xuất). Chẳng hạn, chúng ta có thể dùng nước giếng khơi tại nhà hoặc lấy củi để đun nấu. Nhưng để đơn giản hoá, những chức năng này không được tính đến và đưa vào lược đồ. Trong trường hợp đó, chúng ta có thể coi "người sản xuất" và "người tiêu thụ" là một.
Sản xuất và tiêu thụ tạo nên "chất bã" (chất thải), bao gồm tất cả các loại cặn bã vật chất có thể thải vào không khí hoặc nước, hay được huỷ bỏ trên mặt đất. Các chất thải rất nhiều và danh sách của chúng dài đến nỗi không thể tin được: đioxyt lưu huỳnh, hợp chất hữu cơ bay hơi, dung môi độc hại, phân động vật, thuốc trừ sâu, các loại bụi lơ lửng, vật liệu xây dựng thải ra, kim loại nặng, vân vân và vân vân. Năng lượng thải ra dưới dạng nhiệt, tiếng ồn và phóng xạ mang đặc trưng của cả vật chất và năng lượng cũng là những chất thải quan trọng của sản xuất. "Người tiêu thụ" cũng phải chịu trách nhiệm về việc thải vào môi trường một lượng chất thải khổng lồ, đặc biệt là cống rãnh và khí do ô tô thải ra. Tất cả các vật chất kết tính trong hàng hoá của người tiêu thụ cuối cùng tất yếu phải kết thành các thứ để lại, ngay cả khi chúng có thể được tái tuần hoàn. Điều này giải thích tại sao ngày càng có một lượng lớn chất thải rắn, các hoá chất độc hại và dầu đã sử dụng còn tồn tại.
Trước hết, chúng ta hãy xem xét vấn đề chất thải của sản xuất và tiêu thụ trên quan điểm hoàn toàn vật lý. Sơ đồ 2 cho thấy vật chất và năng lượng được khai thác từ môi trường tự nhiên và chất thải được thải trở lại vào môi trường tự nhiên. Định luật thứ nhất của nhiệt động học - định luật nổi tiếng về bảo toàn vật chất - chỉ cho chúng ta thấy rằng: trong cuộc "chạy đua đường dài", hai dòng này phải bằng nhau, nghĩa là:
M = Rpd + Rcd (theo các ký hiệu ở sơ đồ 2)
Tại sao chúng ta lại nói trong cuộc "chạy đua đường dài"? Nếu hệ thống lớn lên, thì nó có thể giữ lại một tỷ lệ nào đó những đầu vào lấy từ môi trường tự nhiên theo hướng tăng quy mô của hệ thống (do dân số tăng lên, thiết bị chủ yếu tập trung và tích tụ lại, v.v… ) Nhưng nếu và khi hệ thống không lớn lên nữa, thì điều này sẽ không còn (bị huỷ bỏ). Sự tái tuần hoàn, rõ ràng, có thể làm chậm tốc độ tích lũy chất thải. Nhưng, tái tuần hoàn không bao giờ có thể hoàn chỉnh, mỗi chu kỳ hẳn sẽ mất đi một tỷ lệ nào đó chất được tái tuần hoàn. Do đó, phương trình cân bằng vẫn giữ nguyên trong cuộc "chạy đua đường dài". Điều này chứng tỏ một kết luận rất cơ bản là: nếu chúng ta muốn giảm khối lượng chất thải vào môi trường tự nhiên, thì chúng ta phải giảm số lượng nguyên vật liệu đưa vào hệ thống.
Để hiểu rõ hơn, bây giờ chúng ta thay thế M theo dòng:
Rpd + Rcd = M = G + Rp - Rpr - Rcr
nghĩa là số lượng nguyên vật liệu (M) bằng tái sản xuất ra (G) cộng với chất thải sản xuất (Rp) trừ đi tổng lượng được tái tuần hoàn của người sản xuất (Rpr) và của người tiêu thụ (Rcr).
Có ba cách chủ yếu để giảm M (và do đó giảm chất thải vào môi trường tự nhiên):
a. Giảm G: tức là giảm chất thải bằng cách giảm số lượng hàng hoá và dịch vụ do nền kinh tế sản xuất ra. ở đây, có nhiều quan điểm khác nhau. Một số người cho rằng, đây là câu trả lời tốt nhất, lâu dài cho sự suy thoái môi trường, giảm đầu ra, hoặc chí ít cũng là ngăn chặn được tốc độ tăng trưởng của nó, thực hiện được sự thay đổi tương ứng về số lượng chất thải. Một số người khác lại tìm cách đạt mục tiêu này thông qua chủ trương "dân số không tăng trưởng". Dân số tăng chậm hoặc không tăng có thể làm cho việc kiểm soát tác động môi trường dễ dàng hơn, nhưng không thể nào kiểm soát tác động môi trường bằng bất cứ cách nào vì hai lý do sau đây: một là, dân số không thay đổi có thể tăng về kinh tế và do đó tăng nhu cầu về nguyên vật liệu; hai là, tác động môi trường có thể là lâu dài và lũy tích, cho nên ngay cả khi dân số không tăng, môi trường vẫn có thể bị suy thoái dần. Có một điều luôn luôn đúng ở đây là tăng dân số sẽ thường làm trầm trọng thêm tác động môi trường của nền kinh tế. Trong các nền kinh tế của nhiều nước công nghiệp phát triển, trong mấy thập kỷ vừa qua, nhờ có công nghệ kiểm soát khí ô nhiễm, nên khí ô nhiễm của mỗi xe ô tô phát ra đã giảm đáng kể, nhưng do số lượng ô tô chạy trên xa lộ đã tăng lên rất nhiều, nên đã làm cho tổng lượng khí ô nhiễm do ô tô phát ra ở nhiều vùng tăng lên.
b. Giảm Rp: Có một cách khác để giảm M và do đó giảm được chất thải ra, đó là giảm Rp. Giả sử là các dòng khác không thay đổi. Điều này có nghĩa rằng chủ yếu là thay đổi tổng lượng chất thải sản sinh ra trong quá trình sản xuất với số lượng thành phẩm sản xuất đã cho. Về cơ bản, chỉ có hai cách để thực hiện điều này. Cách thứ nhất là chúng ta nghiên cứu, chế tạo và áp dụng các công nghệ và thiết bị mới vào sản xuất nhằm tạo ra lượng chất thải ít hơn trên một đơn vị thành phẩm. Có thể gọi đấy là giảm "cường độ chất thải" của sản xuất. Khi bàn đến vấn đề phát thải khí CO2 toàn cầu và khí quyển nóng lên chẳng hạn, thì chúng ta có thể thấy rằng, có rất nhiều điều có thể làm được để giảm cường độ CO2 trong quá trình sản xuất năng lượng đầu vào để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, v.v… Cách thứ hai là thay đổi thành phần bên trong của sản phẩm. Sản phẩm G hiện nay bao gồm một số lớn các hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Giữa chúng có sự khác biệt lớn về chất thải sinh ra trong quá trình sản xuất ra chúng. Do đó, muốn giảm tổng lượng chất thải phải thay đổi thành phần của G theo hướng từ tỷ lệ chất thải cao đến tỷ lệ chất thải thấp trong khi vẫn giữ nguyên tổng số. Sự chuyển dịch từ kinh tế sản xuất chế tạo sang kinh tế dịch vụ là bước đi theo hướng này. Trong hơn nửa thế kỷ qua, khu vực dịch vụ của các nước công nghiệp phát triển đã đạt được tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh.
c. Tăng (Rpr + Rcr):Khả năng thứ ba là tăng tái tuần hoàn. Thay vì thải các chất thải sản xuất và tiêu thụ, chúng ta có thể tái tuần hoàn, đưa chúng trở lại vào quy trình sản xuất. Nhờ có tài tuần hoàn mà chúng ta có thể thay thế một phần dòng khởi nguyên của các nguyên vật liệu chưa khai thác (M) và do đó, giảm bớt lượng chất thải, đồng thời vẫn duy trì được lượng hàng hoá và dịch vụ (G). Trong nền kinh tế hiện đại, tái tuần hoàn tạo cơ hội lớn để giảm dòng thải. Tuy nhiên, tái tuần hoàn không bao giờ có thể hoàn chỉnh được, ngay cả khi chúng ta dành cho nó rất nhiều nguồn lực, bởi vì quy trình sản xuất làm thay đổi cấu trúc vật lý của nguyên vật liệu đầu vào nên gây khó khăn cho việc tái sử dụng chúng.
Nguồn vật chất đã chuyển hoá thành năng lượng thì không thể nào có thể phục hồi được. Thêm nữa, bản thân quy trình tái tuần hoàn cũng có thể tạo nên chất thải. Hy vọng rằng, các nghiên cứu, tìm kiếm trong lĩnh vực này sẽ phát hiện ra nhiều phương pháp tái tuần hoàn mới, nhiều quy trình công nghệ không có hoặc có ít chất thải.