24/05/2018, 20:17

Mô hình đồ thị thể hiện các quá trình và các dịch vụ thời gian

Mô hình đồ thị Đoạn 3.1 mô tả các khái niệm QT và luồng. Trong đoạn này, chúng ta quan tâm đến việc làm thế nào để chúng có thể đặt cùng với nhau. Các QT có quan hệ với nhau bởi điều đó cần thiết cho: - tính đồng bộ : việc ...

Mô hình đồ thị

Đoạn 3.1 mô tả các khái niệm QT và luồng. Trong đoạn này, chúng ta quan tâm đến việc làm thế nào để chúng có thể đặt cùng với nhau. Các QT có quan hệ với nhau bởi điều đó cần thiết cho:

- tính đồng bộ: việc chạy một vài QT phải được tiếp nối theo một trình tự nào đó. Một ví dụ về sự đồng bộ là mối quan hệ đi trước (tiền tố: predecence) giữa hai QT. Mối quan hệ đi trước giữa hai QT quy định rằng một QT chỉ được thực hiện khi mà những QT "đi trước" nó đã được thực hiện.

- hoặc/và vấn đề truyền thông: Trong nhiều trường hợp thì mối quan hệ đi trước hoặc thứ tự của các QT là không nhất thiết đối với việc các QT CTĐ cho nhau.

Hình 3.6 sử dụng mô hình đồ thị để biểu thị hai cái nhìn khác nhau về sự tác động giữa các QT. Đồ thị QT đồng bộ theo mô hình đồ thị có hướng không chu trình thể hiện trực tiếp mối quan hệ đi trước và thứ tự trong tập các QT. Những cạnh vô hướng trong đồ thị QT dị bộ thể hiện đường truyền thông và sự phụ thuộc giữa các QT.

Các đồ thị trong hình 3.6 chưa cho biết cụ thể thực sự mô phỏng tác động trong một hệ phức tạp. Tuy nhiên, chúng vẫn được sử dụng để xây dựng mô hình các QT và bộ xử lý trong hệ thống phân tán:

- Đồ thị QT đồng bộ được sử dụng để đánh giá tổng thời gian của một tập hợp các QT,

- Đồ thị truyền thông dị bộ có thể được sử dụng để nghiên cứu phân bố các bộ xử lí nhằm tối ưu hoá tổng chi phí về thời gian truyền thông giữa bộ xử lí.

Đồ thị quá chi tiết đối với hệ phân tán thường làm cho việc phân tích khó khăn hơn và thậm chí gần nhưng không thể giải quyết được.

Trong hình 3.6, cạnh có hướng trong đồ thị đi trước được giải thích qua truyền thông đồng bộ đối với QT gửi và nhận TĐ. Kết quả từ QT này được chuyển đến QT liền sau nó như là một input. Sự chuyển thông tin xẩy ra và được đồng bộ chỉ khi hoàn thành một QT và bắt đầu một QT tiếp theo.

Truyền thông được xác định chính xác hơn trong đồ thị QT dị bộ, khi chưa thể nói về việc làm thế nào và vào lúc nào thì việc truyền thông xẩy ra, ngoại trừ việc khẳng định tồn tại đường truyền thông giữa hai QT.

QT trong đồ thị vô hướng thực hiện vô hạn định, trái lại, QT trong đồ thị có hướng thì chỉ có thể thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định và được gọi là thời gian sống (lifetime). Có ba kiểu CTĐ cho mô hình đồ thị dị bộ: Một chiều (one-way), Client/Server và ngang hàng (peer to peer). Nếu sử dụng thuật ngữ về truyền tin thì chúng tương đương với: truyền đơn (simple), Bán - hai chiều (Half - duplex) và hai chiều (full - duplex):

- Một QT ứng dụng CTĐ một chiều thì gửi một TĐ nhưng không có yêu cầu về sự trả lời. Ví dụ về truyền tin loại này là thông tin quảng bá (broadcast) cho mọi người mà không có sự kiểm tra từ mọi người về kết quả nhận TĐ.

- Trong mô hình Client/Server, truyền thông hai chiều: Một QT gửi yêu cầu và nhận sự trả lời đối với yêu cầu đó. Rất nhiều ứng dụng thực hiện theo quan hệ hai chiều master/slave.

- Thông tin ngang hàng là một cách trao đổi thông tin đối xứng, nó được sử dụng cho việc chuyển thông tin giữa những qúa trình cộng tác.

Mô hình không gian - thời gian

Mô hình đồ thị QT đồng bộ và dị bộ thích hợp cho việc đánh giá hệ thống nhưng lại thiếu chi tiết và đầy đủ để thể hiện được sự tương tác giữa các QT. Hình 3.7 trình bày mô hình không gian - thời gian là cách thể hiện tốt hơn việc truyền thông và quan hệ đi trước. Sự tồn tại của đường truyền thông và quan hệ đi trước giữa các sự kiện và việc truyền thông thực sự được thể hiện tường minh trong mô hình. Quan hệ đi trước hoặc là đường truyền thông tin được nhận biết dễ dàng trong mô hình không gian - thời gian. Mô hình QT này có nhiều thông tin để đánh giá sự tương tác giữa các QT hơn là thông tin để đánh giá về sự hoạt động chung toàn hệ thống.

Như vậy, mỗi mô hình (đồ thị, không gian - thời gian) có tác dụng riêng và tùy thuộc vào mục đích đánh giá để chọn mô hình.

Khi các QT được thể hiện bằng đồ thị đi trước hoặc đồ thị truyền thông, sự tương tác giữa các QT phải được phát biểu trong một ngôn ngữ hoặc theo các kiểu kĩ thuật khác nhau. Giải pháp hoặc đặt ra một ngôn ngữ đồng thời (concurrent language)cho QT đồng thời hoặc là sẽ dễ dàng hơn khi mở rộng một ngôn ngữ tuần tự đã có bằng cách bổ sung những cấu trúc hoặc thêm một HĐH cung cấp cho việc tạo QT, truyền thông, và đồng bộ QT. Ví dụ, chúng ta đưa ra một cấu trúc điều khiển Cobegin/Coend hoặc sử dụng những lời fork/join để tạo và đồng bộ những QT đồng thời. Những QT được tạo ra bằng cách này thì được ghép chặt chẽ khi chúng có mối quan hệ chủ tớ (master/slave) hoặc là cha con (parent/child) và chia sẻ cùng một thuộc tính chung. Chúng có thể phối hợp làm việc vì một mục tiêu chung và thường được thực hiện bởi một cá thể riêng hoặc là một tổ chức nào đó.

Giải pháp đó thích hợp cho việc thực hiện mô hình đồ thị đi trước. Nhưng về lâu dài, giả sử mối quan hệ giữa các QT là ngang hàng. QT chỉ tác động cùng với QT khác thông qua truyền thông liên QT. Không có mối quan hệ đi trước giữa các QT. Trong thực tế, các QT được tạo lập một cách độc lập, chạy dị bộ và có khoảng thời gian sống khác nhau. Mô hình tốt nhất là đồ thị QT truyền thông. Trong trường hợp này, sự xác định và tương tác giữa các QT phát triển thành một HĐH thay vì thành một ngôn ngữ lớn.

Một cách mô tả tác động lẫn nhau giữa các QT là mô tả theo cách các QT nhìn nhau. Mô hình phổ biến nhất là mô hình Client/Server (quan trọng gần như khái niệm trong suốt trong hệ phân tán). Mô hình Client/Server là hình mẫu lập trình thể hiện tương tác giữa các QT và cấu trúc hệ thống. Mọi QT trong hệ thống cung cấp những dịch vụ cho / hoặc yêu cầu dịch vụ từ các QT khác. QT đưa ra yêu cầu phục vụ được gọi là khách, QT cung cấp dịch vụ được gọi là phục vụ. Đối với mỗi tương tác, một QT chỉ có thể là khách hoặc phục vụ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, QT có thể đóng vai trò cả khách lẫn phục vụ.

Tương tác giữa khách và phục vụ thông qua dãy yêu cầu và trả lời. QT khách yêu cầu dịch vụ từ phục vụ và tự khoá bản thân lại. Phục vụ nhận được yêu cầu từ khách, thực hiện thao tác cần thiết và sau đó gửi TĐ trả lời cho khách. Khi có kết quả trả lời từ phục vụ, khách lại bắt đầu tiếp tục thực hiện. Điều cơ bản ở đây là đồng bộ hỏi - đáp để trao đổi thông tin.

Về mặt logic thì khách truyền thông trực tiếp với phục vụ nhưng thực tế thì yêu cầu hoặc trả lời phải đi qua phần nhân gửi, thông qua một mạng truyền thông đến nhân đích và QT đích. TĐ không được thông dịch bởi hệ thống. Giao thức truyền thông mức cao giữa khách và phục vụ có thể xây dựng trên những TĐ yêu cầu và TĐ trả lời. Hình 3.6 minh họa khái niệm mô hình Client/Server đối với tương tác QT.

Mô hình truyền thông Client/Server
Truyền thông RPC Truyền thông CTĐ
Dịch vụ truyền TĐ hướng kêt nối hoặc không có kết nối

Hình 3.9. Kiểu truyền thông Client/Server trên RPC và CTĐ

Mô hình Client/Server có thể được hiểu như một mô hình truyền thông hướng dịch vụ. Đây được coi là mức trừu tượng cao của sự truyền thông liên QT, mà sự truyền thông này có thể được cung cấp (hỗ trợ) bởi hoặc là RPC hoặc truyền thông CTĐ (message passing comminucation) lần lượt được thi hành qua dịch vụ giao vận theo hướng kết nối hoặc không kết nối trong mạng.

Hình 3.9 cho biết quan hệ của 3 khái niệm trên đây: mô hình Client/Server, RPC và CTĐ. Những dịch vụ được cung cấp bởi phục vụ có thể theo hướng kết nối hoặc không kết nối. Một dịch vụ hướng-kết nối có thể lại được xây dựng dựa trên dịch vụ không kết nối. Nhưng điều ngược lại thì không thể. Mô hình Client/Server đã đạt được một độ trong suốt trong truyền thông.

Chương II đã giới thiệu hệ thống dịch vụ trong hệ phân tán bao gồm ba khu vực chính, đó là : Nguyên thuỷ, hệ thống và dịch vụ gia tăng giá trị.

Dịch vụ nguyên thuỷ là cơ chế nền tảng được đặt trong nhân. Từ góc độ ứng dụng thì chỉ có dịch vụ hệ thống và dịch vụ gia tăng giá trị là có thể nhìn thấy (có thể sử dụng) được từ phía người dùng.

Đối với người sử dụng thì chương trình là một tập hợp của những (QT) khách phục vụ. Nếu chúng ta thi hành dịch vụ hệ thống như là QT phục vụ và tách nó ra khỏi nhân với mọi trường hợp có thể được thì kích thước của nhân sẽ được giảm một cách đáng kể. Rõ ràng là nếu như kích thước của nhân được giảm xuống thì tính khả chuyển theo nền phần cứng khác nhau là dễ dàng hơn. Một kết quả tự nhiên là sử dụng mô hình Client/Server là QT chỉ cần một kiểu lời gọi hệ thống đến nhân đơn, chính là lời gọi gửi và nhận yêu cầu. Vì vậy, nhân không cần thiết phải phân tích cú pháp lời gọi hệ thống và xác định cái gì cần phải làm. Thay vào đó, trách nhiệm của QT phục vụ là thông dịch thông điệp theo hiểu biết nhiều nhất của nhân về cấu trúc của TĐ. Giao diện giữa QT và nhân trở nên đơn giản và đồng nhất.

Nhiều phục vụ có thể cùng tồn tại nhằm cung cấp cùng một dịch vụ. Chúng cần được định danh hoặc theo tên hoặc theo chức năng mà chúng cần thực hiện. Đòi hỏi này phục vụ việc định vị các phục vụ. Những phục vụ, được gọi là những phục vụ ràng buộc hay phục vụ đại lý, chúng ràng buộc QT khách với những QT phục vụ được chọn thành cặp, đôi khi chúng cũng cần được định vị. Cuối cùng, cần hạn chế một cách tối thiểu các phục vụ mà hoàn toàn đã biết tên hoặc địa chỉ. Khi có yêu cầu từ phía khách, phục vụ ràng buộc có thể chọn phục vụ nào thích hợp nhất cho khách đó hoặc là một phục vụ nào đó làm cân bằng tải đối với các phục vụ. Như một sự lựa chọn, cũng có thể thực hiện việc xác nhận của khách cho phục vụ.

Mô hình không gian - thời gian tường minh tương tác giữa các QT, các sự kiện là được ghi nhận chi tiết theo đồng hồ của riêng QT đó. Trong thực tế thì đồng hồ thường được sử dụng để thể hiện thời gian (một độ đo tương đối về thời gian so với một điểm thời gian làm mốc) và bộ đếm thời gian (một độ đo tuyệt đối cho khoảng thời gian) được dùng để mô tả tính đồng thời của các sự kiện theo ba cách khác nhau:

1. Khi nào thì sự kiện xuất hiện.

2. Sự kiện xuất hiện trong bao lâu.

3. Sự kiện nào xuất hiện trước nhất.

Đối với các ứng dụng máy tính, chúng ta cần ý niệm rõ ràng về thời gian và đo thời gian. Ví dụ chúng ta cần biết một file đã được sửa đồi lần cuối cùng vào lúc nào, một khách được đặc quyền bao lâu để truy nhập phục vụ và sửa đổi nào của đối tượng dữ liệu là xẩy ra đầu tiên. Trong trường hợp thể hiện thời gian bằng đồng hồ được tăng một cách đều đặn thì không có sự nhập nhằng về sự xuất hiện các sự kiện trong một QT. Tuy nhiên, những QT tương tác trên những máy độc lập riêng rẽ có thể có nhận thức khác nhau về thời gian. Do không thể có sự nhất thể về đồng hồ toàn cục nên rất khó khăn phối hợp các hành động phân tán như thu lượm thông tin rác trên mạng, định kỳ bảo quản hệ thống file vào nửa đêm mỗi ngày hoặc việc xác nhận giá trị thời điểm kết thúc của việc nhận TĐ. Trong phần này sẽ mô tả hai khái niệm nền tảng về thời gian để xác định được thời gian trong hệ thống phân tán: Đồng hồ vật lý và đồng hồ lôgic. Đồng hồ vật lý là một xấp xỉ tốt của thời gian thực, được dùng để đo cả về thời điểm và lẫn khoảng thời gian. Đồng hồ logic được dùng để sắp xếp các sự kiện. Cả hai đều có vai trò quan trọng trong hệ phân tán.

Đồng hồ vật lý

Trong mọi hệ thống máy tính, đồng hồ vật lý (physical clocks) được sử dụng để đồng bộ và lập lịch cho các hoạt động của phần cứng. Mặt khác, theo khía cạnh phần mềm, nó cần thiết để mô phỏng thời gian thực hoặc là đo khoảng thời gian. Bộ đếm thời gian phần mềm dựa vào bộ đếm thời gian phần cứng. Trong hệ phân tán, mỗi đồng hồ chạy theo một nhịp riêng của mình, và vì vậy tồn tại một độ trễ trong việc trình diễn đồng hồ thời gian. Vì thông tin về thời gian không thể chuyền và nhận được một cách tức thời, do đó, một đồng hồ vật lý tuyệt đối theo lý thuyết thì không thể có. Vì vậy, chúng ta phải đặt một cái ổn định xấp xỉ thời gian thực toàn cục. Thách thức đặt ra là làm sao cho mọi máy tính có thể nhận được thời gian đồng nhất. Mong muốn có thể đạt thời gian đồng nhất gần với thời gian thực nhất có thể được. Để giải quyết vấn đê trên đây, cần một thuật toán về đồng bộ đồng hồ. Hình 3.10 thể hiện kỹ thuật dịch vụ thời gian gần giống với dịch vụ thời gian phân tán DTC (distributed time service) có trong DCE. Bộ ghi nhận thời gian (TC) trong mỗi máy khách yêu cầu dịch vụ thời gian tới một hoặc nhiều phục vụ thời gian (TS). Phục vụ thời gian lưu giữ những thông tin thời gian mới nhất và có thể truy cập đến nguồn thời gian thực toàn cầu. Phục vụ thời gian có thể trao đổi thông tin thời gian, vì vậy dịch vụ thời gian cua nó có thể thích hợp với những khách của nó. Tồn tại hai vấn đề cần quan tâm trong thực tế trong thi hành dịch vụ thời gian, đó là độ trễ trong việc ghi nhận thông tin về thời gian phải được bù vào và sự khác nhau giữa các nguồn thời gian phải được định cỡ.

Phần bù độ trễ

Hình 3.10 mô tả ba kiểu của truy cập thời gian: Phục vụ thời gian đến nguồn thời gian toàn cầu, khách đến phục vụ thời gian và phục vụ thời gian lẫn nhau. Nhiều nguồn hệ thống thời gian toàn cầu UTC (Universal Coordination Time) chuẩn có sẵn đối với máy tính và những ứng dụng gắn chặt tới thời gian khác. Viện tiêu chuẩn và Công nghệ quốc gia NIST của Mỹ cung cấp cách truy nhập với độ chính xác lên tới một miligiây.

Dịch vụ thời gian máy tính tự động ACTS (Automated Computer Time Service) cung cấp những dịch vụ modem tới thời gian NIST thông qua đường điện thoại. ACTS được thiết kế cho những ứng dụng chỉ yêu cầu những dịch vụ thời gian không thường xuyên: QT quay số modem là quá chậm đối với việc đồng bộ những hoạt động phần cứng.

Đối với những truy nhập mang tính thường xuyên, NIST thực hiện một trạm phát sóng ngắn WWV thực hiện việc tán phát những tín hiệu UTC. Độ trễ thời gian của TĐ có thể được tính toán một cách chính xác nếu như khoảng cách từ trạm phát sóng và khoảng cách đến điểm truyền thông tin là được biết. Tuy nhiên, điều không may là sóng radio lại rất nhạy cảm với môi trường.

Một phương án khác là sử dụng dịch vụ của hệ thống định vị toàn cầu GPS (Global Positioning System). Tuy nhiên, vệ tinh GPS lại có quỹ đạo chậm và khoảng cách của nó đến trái đất cũng thay đổi theo thời gian. Để tính được chính xác độ trễ (hoặc khoảng cách) có thể thì cần đến sự theo dõi của nhiều vệ tinh GPS. Giá thành cho phần cứng cũng như giá thành liên quan đến việc tính toán sẽ là rất cao. Cũng có thể dựa vào trạm vệ tinh để quảng bá các thông tin UTC. Khoảng cách vệ tinh đến trạm máy tính dưới đất thì hoàn toàn cố định nhưng độ trễ tốc độ truyền thì lại rất lớn, khoảng 125 milli giây. Nhiều kênh truyền hình cáp (Cable TV chanel) cũng mang cả thông tin về thời gian trong tần số. Mọi nguồn thời gian toàn cầu (Universal time source) chứa đựng những lập luận tán thành và phê phán trong đó. Rất may là không phải tất cả các phục vụ thời gian cần truy nhập đến UTC từ những nguồn đó mà một phục vụ thời gian có thể truyền bá thời gian UTC hiện tại được nó nắm giữ đến những phục vụ thời gian khác một cách chính xác và nhanh chóng.

Vấn đề độ trễ trong QT trình diễn hoặc thu nhận thông tin UTC từ phía khách của một phục vụ thời gian lại là một vấn đề khác. Thêm vào độ trễ của QT truyền tín hiệu là độ trễ trên đường truyền thông mạng. Độ trễ trên mạng thay đổi thường xuyên và là một vấn đề đáng quan tâm hơn là độ trễ truyền tín hiệu. Giả sử Ts và Tr là thời gian gửi và nhận được những yêu cầu về dịch vụ thời gian từ khách đến phục vụ thời gian. Giả sử tp là thời gian gian cần thiết để dịch thời gian thực hiện yêu cầu đó. UTC từ phục vụ thời gian trả về cho khách có thể được điều chỉnh cho đúng bằng cách cộng thêm một nửa của độ trễ Tr - Ts - tp. Công thức tính sự bù đó dựa trên giả thiết là QT giao thông trên mạng (network trafic) là đối xứng.

Nếu đồng hồ ở máy khách nhanh hơn UTC mới thì nó sẽ được làm chậm lại bằng phần mềm. Đồng hồ thời gian không thể quay lại được vì điều đó phủ nhận thời gian của các sự kiên trước đó. Vấn đề đồng hồ chậm hơn thì không đáng ngại nhưng tốt nhất là tăng tốc độ đồng hồ để nó đạt được cùng với UTC một cách từ từ. Ví dụ một sự tăng đột ngột đồng hồ có thể loại bỏ QT đang đợi hoặc là nguyên nhân làm nảy sinh vấn đề hết thời gian (time - out).

Truy cập UTC từ một khách tới một phục vụ thời gian là một mô hình dịch vụ kéo (một kiểu dịch vụ bị động). Một phục vụ thời gian cần phải đóng vai trò chủ động trong việc TĐ UTC đến những khách của nó. Mô hình dịch vụ đẩy (dịch vụ thời gian tích cực) cho ưu điểm là duy trì được mức độ cao tính nhất quán của đồng hồ. Kiểu đẩy giống như sóng radio hoặc là TĐ vệ tinh những UTC mong đợi, cái mà mọi khách đang chờ đón trả lời. Tuy nhiên, khách lại không có cách nào để xác định được độ trễ của mạng. Điều trở ngại này làm cho giải pháp này chỉ thích hợp với những hệ thống có phần cứng đa tán phát, nơi mà độ trễ CTĐ có thể ngắn hơn và có thể dự đoán được trước. Cả hai chế độ kéo và đẩy có thể cùng áp dụng trong việc truyền thông giữa các phục vụ thời gian.

Vần đề dự đoán độ trễ mạng cần phải đạt độ chính xác, đặc biệt khi giao thông trên mạng trở nên đông và tắc nghẽn sẽ dẫn đến kết quả trái ngược nhau về phục vụ thời gian. Để làm tăng độ nhất quán, các phục vụ thời gian có thể định cỡ UTC của chúng với những phục vụ thời gian khác. Một khách có thể nối với nhiều phục vụ thời gian để xác định tính không nhất quán của các UTC.

Xác định sự không đồng nhất

Hình 3.11. Khoảng UTC trung bình

Sự không đồng nhất giữa các phục vụ thời gian có thể được hạn chế nhờ vào sự cộng tác của các UTC. Phục vụ thời gian có thể trao đổi với các phục vụ thời gian khác theo cách kéo hoặc đẩy. Quyết định UTC dựa theo giá trị lớn nhất, nhỏ nhất, điểm giữa hoặc là trung bình của UTC. Hai thuật toán sau là lựa chọn tốt nhất cho mục đích đồng nhất hoá. Nếu trung bình được sử dụng thì hai giá trị nhỏ nhất và lớn nhất được bỏ đi (theo đúng phương pháp thống kê).

Có một điều không chắc chắn nhỏ nữa về UTC được phục vụ thời gian nắm giữ. Phục vụ thời gian có thể kết xuất một khoảng thời gian, UTC ± Δl, trong đó Δl là một thông tin được thống kê một cách không chính xác hoặc những khoảng thời gian không chắc chắn.

Việc xác định tính không chính xác giúp khách quyết định được UTC có đáp ứng được độ chính xác cho ứng dụng đó hay không. Trung bình của UTC trong khoảng thời gian có thể được sửa lại như như trong hình 3.11. Những khoảng không kế tiếp có thể bị bỏ đi. Những phần giao gồm nhiều UTC nhất thì được xác nhận. Điểm UTC mới được xác định ở chính giữa đoạn giao đó.

Thậm chí ngay khi đã có phục vụ thời gian nhất quán, thì tính toán UTC của khách vẫn không nhất quán do độ trễ truyền thông trên mạng không dự đoán được. Vấn đề không nhất quán của khách có thể được giải quyết nếu khách theo chiến lược như phục vụ thời gian là kết nối tới nhiều phục vụ thời gian và định cỡ UTC.

Đồng hồ vật lý đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển phần mềm phân tán bởi vì có rất nhiều giao thức phần mềm dựa vào time-out để nắm giữ loại trừ. Nếu khởi tạo time-out bởi một QT được đặt dưới sự kiểm tra của một QT khác đặt trên một máy khác, hai đồng hồ vật lý phải đồng bộ có thể chấp nhận được đối với cả hai QT. Tem thời gian vật lý được dùng để khử thông điệp bội (ngăn ngừa phát lại) và kiểm tra sự mãn hạn quyền hạn đối với điều khiển truy nhập.

Đồng hồ logic

Đồng hồ vật lý là gần tương đương với đồng hồ thời gian thực toàn cục. Việc đo khoảng thời gian là hữu dụng và nhận được trực tiếp từ đồng hồ vật lý. Nói chung, có thể sử dụng đồng hồ vật lý để chỉ ra được sự kiện nào xảy ra trước sự kiện nào trừ khi chúng xảy ra rất gần nhau. Nếu như độ không chắc chắn của UTC là cao hoặc là khoảng thời gian của các sự kiện là giao nhau thì đồng hồ vật lý không cho khả năng xác định được thứ tự của các sự kiện. Đối với nhiều ứng dụng, các sự kiện không cần lập lịch hoặc đồng bộ với thời gian thực mà chỉ quan tâm đến trình tự thực hiện các sự kiện. Trong trường hợp đó thì đồng hồ lôgic được dùng để xác định thông tin về thứ tự của các sự kiện, đặc biệt trong hệ phân tán, việc duy trì một đồng hồ vật lý chung giữa các QT cộng tác là việc rất khó khăn. Đồng hồ logic Lamport là một khái niệm cơ bản để xếp thứ tự các QT và sự kiện trong hệ thống phân tán.

Mỗi một QT Pi trong hệ thống duy trì một đồng hồ logic Ci, Lamport định nghĩa ký hiệu đại số → như quan hệ xảy ra trước (happens - before) để đồng bộ đồng hồ logic giữa hai sự kiện. a → b có nghĩa là sự kiện a xảy ra trước sự kiện b. Trong cùng một QT, nếu sự kiện a xảy ra trước sự kiện b thì đồng hồ logic Ci(a) và Ci(b) được gán sao cho Ci(a) < Ci(b). Đồng hồ logic trong một QT luôn được tăng một số dương tuỳ ý khi sự kiện trong QT được tăng tiến (nghĩa là thời gian không bao giờ quay trở lại và chỉ đo tương đối đối với đồng hồ logic). Một QT tương tác với một QT khác qua cặp hai phép toán gửi (send) và nhận (receive) từ quá trình Pi đến QT Pj. Việc gửi đi phải được thực hiện trước việc nhận được. Do vậy, giữa sự kiện gửi từ QT Pi và sự kiện nhận tại QT Pj phải đảm bảo tính chất là Ci (gửi) < Cj (nhận) do QT nhận không thể hoàn thành được trước khi sự kiện gửi chưa được thực hiện. Đồng hồ logic C dựa trên quan hệ xảy ra trước được tổng kết theo hai quy tắc sau:

1. Nếu a → b trong cùng một QT thì C(a) < C(b).

2. Nếu a là sự kiện gửi một TĐ của QT Pi và b là sự kiện nhận cũng TĐ đó của QT Pj thì Ci(a) < Cj(b).

Quy tắc 1. rất dễ dàng được thi hành vì trong cùng một QT (chẳng hạn, mỗi khi xuất hiện một sự kiện mới thì bộ đếm đồng hồ lôgic của QT đó tăng lên 1). Quy tắc 2. có thể có hiệu lực nếu như gắn tem thời gian đồng hồ logic của QT gửi vào trong TĐ và QT nhận sẽ cập nhật đồng hồ logic của mình bằng cách sử dụng thời gian của đồng hồ của chính nó và việc tăng tem thời gian theo công thức:

C(b) = C(a) + d và Cj(b) = Max (TSa + d, Cj(b))

trong đó TSa là tem thời gian của sự kiện được gửi và d là một số dương. Mỗi quan hệ xảy ra trước thể hiện kết quả của hai QT có tính bắc cầu:

Nếu a → b và b → c thì a → c.

Hai sự kiện a và b được gọi là hai sự kiện rời nhau và có thể chạy đồng thời nếu như không cả a→ b và b→ c. Biểu đồ không gian thời gian trong hình 3.12 thể hiện mối quan hệ của các sự kiện {(a,e,c) và (d,e,h)} và những sự kiện đồng thời {(b,e), (f,h)}. Đồng hồ logic cho những sự kiện đồng thời không liên quan đến những sự kiện khác.

Thứ tự bộ phận và thứ tự toàn bộ của sự kiện

Sử dụng quan hệ xảy ra-trước và hai quy tắc trên, mọi sự kiến có quan hệ nhân quả sẽ được sắp xếp bởi đồng hồ logic. Kết quả này chỉ cho một thứ tự bộ phận trong đồ thị sự kiện. Với hai sự kiện rời nhau a và b (của hai QT i và QT j), thì Ci(a) < Cj(b) không có nghĩa là a→ b. Hơn nữa, có khả năng là Ci(a) = Cj(b). Thứ tự toàn cục của các sự kiện có thể nhận được bằng cách thêm một quy tắc cho hai sự kiện rời nhau (các sự kiện nhân quả luôn có thứ tự).

3. Với mọi sự kiện a và b thì C(a) ≠ C(b).

Những sự kiện rời rạc cùng với đồng hồ logic định danh có thể được phân biệt theo mốc đồng hồ logic của chúng với một số hiệu QT hoàn toàn khác nhau, điều đó đảm bảo sự duy nhất của một đồng hồ logic toàn cục cho cả hệ thống. Thứ tự của các sự kiện rời nhau không liên quan tới việc thực hiện chính quy của QT. Tập thứ tự toàn cục các sự kiện mô tả một dãy thực hiện đúng đắn mềm dẻo của các sự kiện. Tồn tại nhiều thuật toán điều khiển đồng thời sử dụng tính chất thứ tự toàn cục của sự kiện dựa trên đồng hồ logic.

Đồng hồ logic vector

Thậm chí thứ tự sự kiện toàn cục sử dụng đồng hồ logic được miêu tả ở trên không thể khẳng định được là thực sự có phải sự kiện a xảy ra trước sự kiện b hay không cho dù C(a) < C(b) bởi vì chúng có thể cùng được thực hiện. Trong trường hợp đó, cần sử dụng đồng hồ logic vector, trong đó theo phương thức đồng hồ logic vector, mỗi QT lưu giữ một vertor đồng hồ logic riêng đối với mỗi sự kiện.

Giả sự đồng hồ logic vector của sự kiện a tại bộ xử lý i là VCi(a) = {TS1, TS2, ..., Ci(a), .., TSn}, trong đó n là số QT đồng thời, Ci(a), còn được ghi là TSi, là thời gian đồng hồ logic của sự kiện a trong QT Pi và TSk (k nhận 1, 2, ... , n ngoại trừ i) là ước lượng tốt nhất cho thời gian đồng hồ logic của QT Pk. Ước lượng tốt nhất cho thời gian đồng hồ lôgic của QT khác nhận được thông qua thông tin về tem thời gian được mang trong các TĐ trong hệ thống.

Với mỗi QT thì đồng hồ logic vector được khởi tại bằng 0 tại thời điểm bắt đầu thực hiện QT:

- Đồng hồ logic trong nội tại QT được tăng như quy tắc 1.

- Quy tắc 2 được biến đổi theo cách như sau: Khi QT Pi gửi TĐ m (sự kiện a) đến QT Pj, tem thời gian logic của m (chính là VCi(m)) cũng được gửi cùng với m. Giả sử b là sự kiện nhận m tại QT Pj. Pj sẽ cập nhật đồng hồ logic vector VCj(b) với TSk(b) = Max { TSk(a), TSk(b)}. Pj sẽ giữ giá trị lớn nhất trong cặp của với k = 1 ... n và tăng đồng hồ logic vector của nó lên theo kết quả tính toán. Bằng cách đó, mọi thông tin về đồng hồ được chuyền đến tất cả các QT bằng cách gửi các tem thời gian TSi trong TĐ.

Rõ ràng rằng, nếu sự kiện a trong QT Pi xảy ra trước sự kiện b trong quá Pj thì VCi(a) < VCj(b), nghĩa là TSk(a) ≤ TSk(b) với mọi k và TSj(a) < TSj(b). Điều đó xẩy ra do có một đường chuyển nhân quả từ sự kiện a đến sự kiện b và sự kiện b có nhiều thông tin cập nhật hơn sự kiện a, tem thời gian được truyền dọc theo đường đó và quy tắc để cập nhật luôn là chọn cái lớn hơn trong hai cái. Thêm vào nữa, đồng hồ logic của sự kiện kế tiếp sẽ được tăng bởi sự kiện a. Vì vậy, TSj(b) phải lớn hơn TSj(a). Đối với những sự kiện rời rạc thì không thể có VCi(a) < VCj(b) trừ khi a → b bởi vì QT Pi (nơi xảy ra sự kiện a) sẽ được cập nhật một cách tốt cho thời gian của mình hơn mọi ước lượng của các QT khác về thời gian hiện tại của QT Pi. Do đó, Ci(a) lớn hơn hoặc bằng với TSi trong những vector khác. Cũng như vậy, VCj(b) < VCi(a) nếu như b → a. Nói tóm lại là chúng ta có thể kết luận là hai sự kiện có thể có hay không mối quan hệ trước sau bằng cách so sánh vector thời gian của hai sự kiện đó.

Nếu VCi(a) < VCj(b), chúng ta có thể kết luận là sự kiện a xảy ra trước sự kiện b. Nếu không thì a và b đồng thời. Hình 3.11 đưa ra một ví dụ của đồng hồ logic vector dùng mô hình không gian thời gian.

Đồng hồ logic ma trận

Khái niệm đồng hồ logic vector có thể được mở rộng thành đồng hồ logic ma trận (Matrix logical clock). Một đồng hồ ma trận MC[k,l] tại quá trình P là một ma trận cấp nxn, nó thể hiện giờ logic bằng vector của đồng hồ logic vector. Dòng i trong ma trận MC[1..n,1..n] là một đồng hồ logic vector của Pi. Dòng thứ j trong ma trận MC[1..n,.1..n] xác định chính tri thức mà quá trình Pj có được về đồng hồ logic vector của QT Pi. Luật cập nhập đồng hồ logic ma trận giống như cập nhật cho đồng hồ logic vector. Mỗi một sự kiện địa phương, QT sẽ tăng đồng hồ của nó bằng cách đặt

MCi[i,i] = MCi[i,i] + d.

Khi QT Pi gửi TĐ đến QT Pj, toàn bộ đồng hồ ma trận MCi[k,l] được gán tem thời gian bằng TSi[k,l] và gửi cùng với TĐ đến QT Pj. Đầu tiên, Pj cập nhật đồng hồ vector bằng luật lấy lớn hơn trong một cặp.

MCj[j,l] = max { MCj[j,l], TSi[j,l] } l = 1..n

Sau đó, Pi cập nhật toàn bộ ma trận một lần nữa bằng luật lấy phần tử lớn hơn trong một cặp

MCj[k,l] = max { MCj[k,l] , TSi[k,l] } k = 1..n, l = 1..n

Lần cập nhật đầu tiên bảo quản được thứ tự của các sự kiện. Lần cập nhật thứ hai truyền thông tin cho những QT khác qua cách chuyển các TĐ.

0