25/05/2018, 00:14

Miền Nam Việt Nam Sức mạnh của sông Mê Kông

Miền Nam Việt Nam bị chi phối bởi châu thổ Mê Kông, một vùng đồng bằng trù phú và rộng lớn bao phủ 2/3 diện tích của cả khu vực. Được người Việt Nam gọi là Nam Bộ và người Pháp gọi là Cochinchina, miền Nam Việt Nam kéo dài từ phía Nam của dãy ...

Miền Nam Việt Nam bị chi phối bởi châu thổ Mê Kông, một vùng đồng bằng trù phú và rộng lớn bao phủ 2/3 diện tích của cả khu vực. Được người Việt Nam gọi là Nam Bộ và người Pháp gọi là Cochinchina, miền Nam Việt Nam kéo dài từ phía Nam của dãy Trường Sơn đến mũi của bán đảo Cà Mau, là điểm đất liền tận cùng ở phía Nam của đất nước (hình 50). Mê Kông là dòng sông lớn nhất ở Đông Nam Á; các nhà khoa học ước tính rằng nó đứng thứ 3 trên thế giới về số lượng các loài cá, chỉ đứng sau sông Amazon và sông Côngô. Mức độ đa dạng sinh học của vùng châu thổ và của miền Nam Việt Nam nói chung phụ thuộc vào các chu kỳ nước và tài nguyên bắt nguồn từ thượng lưu và chảy vào sông Mê Kông.

Khi sông Mê Kông mở rộng ra vào mùa mưa, ở đây xảy ra một trong những hiện tượng tự nhiên đáng chú ý nhất trên thế giới. Một lượng nước lớn chảy theo dòng sông khiến một trong những sông nhánh của nó ở Campuchia đổi ngược dòng chảy bình thường theo hướng Đông Nam của nó. Con sông này chảy ngược về hồ Tônlê Sap là hồ nước ngọt lớn nhất ở lục địa Đông Nam Á. Hồ nông này nhanh chóng mở rộng diện tích khoảng 2.700km2 vào thời kỳ nước thấp trong mùa khô lên đến khoảng 10.360km2 và độ sâu của nó tăng từ 1-3m lên 9-14m. Dòng nước này mang theo một lượng lớn chất dinh dưỡng đến hệ thống hồ đảm bảo cho các quần thể cá phát triển và thức ăn cho hàng đàn chim nước cũng như ngành công nghiệp đánh cá lớn và việc canh tác lúa dọc theo bờ hồ.

Phía Bắc và phía Đông của châu thổ sông Mê Kông là hỗn hợp các loại rừng thường xanh, bán thường xanh, rừng rụng lá một mùa và rừng ven biển thường có các loài dầu (họ Dipterocarpaceae) chiếm ưu thế. Các loại môi trường sống này khá giống với các vùng đồng bằng được mô tả tại vùng Nam Trung Bộ của Việt Nam vì chúng mọc trên các loại đất giống nhau và có cùng các điều kiện thời tiết. Giống như ở vùng Nam Trung Bộ, độ ẩm trong đất là nhân tố chính quyết định loại rừng. Những môi trường sống ở vùng đồng bằng dọc theo các dòng nước và các hồ nhỏ nằm trong rừng đóng vai trò rất quan trọng cho các loài hiếm như tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus annamiticus) và gà tiền mặt đỏ (Polyplectron germaini). Do các loại rừng này đã được mô tả trong phần nói về miền Trung Việt Nam ở chương 7, chương này sẽ tập trung vào các vùng đất ngập nước độc đáo của miền Nam Việt Nam.

Người dân sống ở miền Nam Việt Nam phía ngoài thành phố Hồ Chí Minh chủ yếu có nguồn gốc từ người Việt, người Hoa và Khơme. Khơme, nhóm dân tộc lớn thứ 6 ở Việt Nam, đã sống ở vùng châu thổ sông Mê Kông ở cả Việt Nam lẫn Campuchia trong nhiều thế kỷ. Nhóm dân tộc lớn thứ 5 ở trong nước, người Hoa, bắt đầu di cư xuống Việt Nam từ miền Nam Trung Quốc vào thời kỳ bắt đầu Công Nguyên, nhưng những làn sóng di cư lớn nhất diễn ra ngay trước và sau chiến chiến tranh thế giới lần thứ 2. Trong lịch sử, mật độ dân số ở vùng châu thổ sông Mê Kông thấp và các vùng rộng lớn chỉ bắt đầu được định cư vào thế kỷ 17. Tuy nhiên, ngày nay miền Nam Việt Nam là vùng có mật độ dân số lớn thứ 2 trong cả nước, với 2.400 người/km2 tại thành phố Hồ Chí Minh. Cả vùng châu thổ có mật độ dân số thấp hơn châu thổ sông Hồng, với trên 400 người/km2.

Châu thổ sông Mê Kông có độ cao trung bình chỉ khoảng một vài mét trên mực nước biển, với một số lượng nhỏ các núi riêng biệt xuất hiện trên vùng đồng bằng. Phần lớn có cấu tạo là đá granit và đôi khi là đá vôi; núi cao nhất là núi Cam có độ cao 710m. Dọc theo biên giới giữa Campuchia và Việt Nam có các nền đất cổ, cao do trầm tích của sông Mê Kông tạo thành có diện tích khoảng 150.000ha. Các thời kỳ nước biển dâng cao và rút đi luân phiên nhau trong vòng hàng chục ngàn năm đã tạo nên địa hình của vùng châu thổ. Có ba dạng địa hình chính tạo nên vùng châu thổ: đồng bằng ngập nước theo mùa, hỗn hợp ven biển và vùng trũng rộng lớn được xác định bằng địa hình, chế độ nước, khí hậu và đặc điểm về đất của chúng.

Loại địa hình có phân bố rộng nhất trong vùng châu thổ cho đến nay là đồng bằng ngập nước theo mùa, nằm ở các khu vực miền Bắc và miền Trung (hình 51). Vùng bị ngập nước nhiều theo mùa ở phía Tây Bắc (vùng bị ngập nước sâu nhất) bao gồm các con đê tự nhiên, cồn cát và các vùng đầm lầy. Một vùng khép kín nằm trong khu vực này, gọi là Đồng Tháp Mười, nước khó rút ra và rút ra chậm. Vùng này bị lụt đến 3m trong phần lớn thời gian của năm. Một vùng mở ở phía Tây Nam, gọi là Tứ Giác Long Xuyên trong đó có vùng đồng bằng Hà Tiên, rút nước ra vịnh Thái Lan và bị ngập tới 1.5-2m. Đất của cả vùng khép kín và vùng mở của đồng bằng ngập nước nhiều theo mùa có tính axit. Ngược lại, vùng đồng bằng ngập nước theo mùa do ảnh hưởng của thủy triều nằm giữa châu thổ ngập nước ít hơn, ở mức 0.5-1m, và các con sông làm cho đất trở nên có độ axit quá cao.

Tại những khu vực phía Nam và phía Đông, môi trường sông và biển kết hợp với nhau để gây tác động lên hỗn hợp ven biển bao gồm bãi triều, cồn cát và rừng ngập mặn. Tại độ cao 1-1.5m trên mực nước biển, các bãi triều thấp dọc theo bờ biển không trực tiếp bị ngập do nước biển mặc dù nước mặn có tiến vào các vùng lân cận. Các cồn cát cao đến 2.5m chạy song song với đường bờ biển của châu thổ sông Mê Kông. Các vùng bãi triều nằm giữa các cồn cát và bờ biển bị ngập nước mặn vào mùa khô; nước mặn được thay thế bằng nước ngọt vào mùa mưa. Các đầm lầy và rừng ngập mặn bao bọc bán đảo Cà Mau và các cửa sông tại các vùng ven biển quay về phía Đông.

Một vùng trũng chiếm một phần lớn khu vực đất liền ở phía Nam của châu thổ. Khu vực này là vùng ít chịu ảnh hưởng của sông Mê Kông nhất và phần lớn bị ngập nước mặn trong mùa khô. Các đầm lầy than bùn, trong đó có U Minh Thượng và U Minh Hạ, chiếm ưu thế trong các khu vực thấp nhất của vùng trũng này. Trong mùa mưa, khi lượng mưa có thể lên tới 3.000mm, các đầm lầy than bùn bị ngập tới 1-1.5m. Trong mùa khô, đất than bùn vẫn giữ lại một lượng nước lớn và trở thành nguồn nước chủ yếu cung cấp cho các vùng nông nghiệp xung quanh.

Đa số các loại đất ở châu thổ sông Mê Kông là phù sa. Các loại đất có tính axit cao chiếm 40% ở châu thổ sông Mê Kông. Các loại đất này có trong các vùng đầm lầy có thủy triều nơi đất bị úng nước và bị nước biển tràn qua và giàu chất hữu cơ. Quá trình phân hủy tạo ra các hợp chất trong đất (như sunfua) có thể tạo thành axit trong các điều kiện nhất định. Khi được giữ ẩm, chúng ở trạng thái trung tính. Tuy nhiên, trong các điều kiện khô chúng trở nên có tính axit. Khi axit sunfuaric thoát ra khỏi đất, thực vật bị tiếp xúc với các nguyên tố độc và gây hại. Thường thì các vùng nước ở cạnh cũng trở nên có tính axit. Nước chảy ra từ các loại đất này là một trong những lý do chính tại sao nước trên bề mặt ở vùng châu thổ có thể có tính axit cao (với độ pH thấp hơn 3). Những thay đổi này có thể ảnh hưởng đến các khu vực nằm trong vùng hạ lưu và ảnh hưởng đến tốc độ lớn của cây và có thể gây độc cho cá; chúng ta có thể tưởng tượng được những khó khăn mà cá và các loài thực vật phải trải qua khi sống trong môi trường nước có độ axit tương đương với dấm.

Miền Nam Việt Nam có khí hậu nhiệt đới và gió mùa ở mức độ cao và lượng mưa hàng năm thường thay đổi trong khoảng 1.500-2.000mm. Do sự thay đổi của khí hậu địa phương, các vùng phía Bắc nhận được khoảng một nửa lượng mưa hàng năm (1.250mm) so với các vùng phía Tây Nam (2,350mm). Lượng mưa phân bố khá đều trong mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 với phần lớn lượng mưa rơi vào tháng 9 và tháng 10. Mùa đông (tháng 12 đến tháng 3) rất khô và lượng mưa nằm dưới mức 100mm từ 4 đến 6 tháng và một số khu vực gần như không có mưa trong một tháng (bảng 4).

Châu thổ sông Mê Kông là vùng nóng và ẩm nhất của Việt Nam, đặc biệt là vào tháng 4. Vào thời điểm lạnh nhất trong năm (khoảng tháng 1) nhiệt độ thay đổi trong khoảng 20-23oC trong toàn bộ khu vực trong khi đó trong tháng 4, nhiệt độ lên tới 32-35oC.

Sông Mê Kông bắt nguồn ở độ cao 5.000m từ vùng núi Tanghla Shan trong dãy Himalaya thuộc Tây Tạng, kéo dài 4.350km và chảy qua hoặc dọc theo biên giới của 6 nước (Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam) trước khi ra đến biển Đông (hình 52). Tại nguồn của sông Mê Kông trên cao nguyên Tây Tạng, khí hậu khắc nghiệt với mùa đông dài, mùa hè lạnh và lượng mưa hàng năm thấp (250-500mm). Các đồng cỏ trên núi và thực vật vùng bán tunđra chiếm ưu thế trong khu vực này. Tại đây dòng sông này có tên là Da Chu, hoặc nước của đá, theo tiếng Tây Tạng.

Khi sông Mê Kông chảy qua phía Đông Nam của Tây Tạng, nó tiến rất gần tới hai con sông lớn khác của châu Á. Trong một khu vực hẹp có chiều rộng chỉ có 60km, sông Salween, Mê Kông và sông Hoàng Hà chảy song song trong khoảng cách hơn 300km và vượt qua một loạt các hẻm núi dốc và có rừng bao phủ. Các dòng sông này nằm ở độ cao 1.000-1.500m trên mặt nước biển và được tách biệt bởi các dãy núi cao trên 5.000m. Sau đó chúng đột nhiên tách nhau ra, Salween chảy về phía Tây đổ vào vịnh Bengal, sông Hoàng Hà xoắn vòng tròn về phía Đông qua các dãy núi và đồng bằng của Trung Quốc đển đổ ra Thái Bình Dương và sông Mê Kông tiếp tục chảy theo hướng Đông Nam về phía Lào, Campuchia và Việt Nam. Trong khi ở phía Nam của Tây Tạng những con sông lớn này cùng tụ lại trong một khu vực chỉ rộng vài chục km thì cửa sông của chúng cách nhau 4.000km.

Ở tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, khí hậu trở nên ôn hòa hơn với lượng mưa hàng năm lớn hơn (hơn 1.700mm) và mùa động nhìn chung không có sương giá. Trong vùng Tây Nam này của Trung Quốc, sông Mê Kông có tên là Langcang Jang hay dòng sông hỗn loạn. Rời khỏi Vân Nam, sông Mê Kông đầu tiên chảy dọc theo biên giới giữa Myanmar và Lào. Tại đây, sau khi đã hạ xuống độ cao 4.500m trong một chiều dài 1.800km, nó chảy hơi chậm lại vào đi theo hướng Đông vào Lào. Gần như toàn bộ các lưu vực sông ở Lào (phần lớn chảy từ sườn phía Tây của dãy Trường Sơn) chảy vào sông Mê Kông trên chiều dài 1.600km của nó chạy dọc đất nước tạo thành một hẻm núi bằng cách cắt qua vành đai sa thạch tại cao nguyên Khorat. Thác nước và vùng nước chảy xiết xuất hiện rất nhiều ở vùng thượng nguồn này của sông Mê Kông. Tại biên giới Campuchia, sông Mê Kông, tại điểm này rộng 13km, đổ xuống tại thác nước Khone cao 20m. Bên dưới điểm này, các sông nhánh chính của sông Mê Kông tại Việt Nam chảy từ phía Tây và phía Nam của dãy Trường Sơn và nối vào con sông này. Tại Kratié, sông Mê Kông bắt đầu chảy chậm lại và hoàn toàn biến đổi từ một con sông chảy xiết ở trên núi thành một con sông rộng ở vùng đồng bằng với rất nhiều khúc uốn hình chữ U và đầm lầy.

Ở miền Nam Trung Bộ của Campuchia, sông Mê Kông nhận nước từ dòng sông nhánh chính cuối cùng của nó, sông Tonle Sap. Đối diện với Phnôm Pênh, tại một địa điểm có tên là Chatomuk dòng sông tách làm đôi. Sông Mê Kông (Tiền Giang trong tiếng Việt Nam) chảy về phía Đông và sông Bassac (Hậu Giang) chảy về phía Tây. Các dòng sông sau đó chia thành rất nhiều các sông nhánh nhỏ để tạo thành châu thổ sông Mê Kông rộng 65.000km2, 80% của nó phân bố tại Việt Nam.

Vùng châu thổ được hình thành chủ yếu từ các trầm tích cổ của sông Mê Kông, chảy vào biển Đông qua 9 cửa sông. Các cửa sông này tạo cho sông Mê Kông có tên Việt Nam, sông Cửu Long, hay là sông chín rồng. Lượng phù sa của sông đã làm cho vùng châu thổ tiếp tục mở rộng; trong thế kỷ trước phù sa lắng đọng xuống biển Đông đã mở rộng vùng châu thổ ra phía ngoài với tốc độ 50-150m/năm. Vùng châu thổ hiện có khoảng 4.000km đường thủy, trong đó có sông, nhánh sông và kênh rạch (xem hình 55).

Lượng mưa thay đổi theo mùa trong toàn bộ vùng Đông Nam Á gây ra sự dao động lớn về lượng nước sông Mê Kông và mức độ ngập lụt của các vùng đất xung quanh. Lụt gây ra do dòng chảy tăng trong mùa mưa và mức nước ngập còn tăng lên nữa khi nước triều cao đồng thời xảy ra. Dòng chảy lớn nhất hàng năm tại Kratié là 56.800m3/giây. Lượng nước này gấp 48 lần lượng nước tối thiểu được ghi nhận và là sự thay đổi dòng chảy lớn nhất thế giới so với các con sông lớn khác. Trái lại, khi các dòng chảy ở mức thấp nhất, thủy triều nước mặn xâm nhập và các khu vực phía trên của dòng sông và ảnh hưởng đến toàn bộ 1/3 vùng châu thổ. Trong mùa mưa, thủy triều nước mặn cũng có thể xâm nhập vào các khu vực phía Đông Nam.

Tại thời điểm dòng chảy lớn nhất, nhiều khu vực rộng lớn của vùng châu thổ bị ngập nước hoàn toàn; ở phía Bắc, nước có thể sâu đến 3m và kéo dài 4 hoặc 5 tháng (hình 53). Tại nhiều đoạn nhất định của dòng sông, nước có thể dâng cao đến 20m. Ở châu thổ sông Mê Kông của Việt Nam, nước lụt làm ngập trên 12.000km2 rừng, đồng cỏ và đồng ruộng.

Thực vật và môi trường sống

Các khu rừng ở phía Bắc của miền Nam Việt Nam thay đổi từ rừng thường xanh ở vùng đồng bằng đến rừng bán thường xanh cũng như đồng có thứ sinh có phân bố rộng và rừng tre. Các cây rụng lá một mùa thuộc chi Lagerstroemia, một loại cây trân châu, chiếm ưu thế ở khu vực tán lá cao 35-45m trong các khu rừng bán thường xanh của vùng này, trong khi đó hỗn hợp rừng thường xanh và rừng rụng lá một mùa mọc phía dưới. Nằm rải rác trong các khu rừng này là các vùng đất ngập nước nhỏ, trong đó có hồ, đồng cỏ ngập nước theo mùa và rừng ngập nước.

Mặc dù nhiều bằng chứng như các gốc cây còn lại có kích thước rất to cho thấy là nhiều vùng rộng lớn của châu thổ sông Mê Kông một thời có rừng bao phủ, thực vật nguyên sinh chỉ còn lại rất ít. Hiện nay, 3 loại thực vật tự nhiên chính đặc trưng cho khu vực này: rừng đầm lầy nước ngọt, rừng ngập mặn và đồng cỏ. Khả năng chiếm ưu thế của các loại thực vật này phụ thuộc vào lượng mưa, hàm lượng muối, độ sâu của nước và thời gian ngập nước và các đặc tính của đất.

Các khu vực đất ngập nước bán tự nhiên còn lại ở châu thổ sông Mê Kông là Đồng Tháp Mười, đồng bằng Hà Tiên và vùng đất ngập nước U Minh (xem hình 51). Thực vật nước ngọt bao gồm rừng đầm lầy và các vùng thực vật phi gỗ, sống ở bờ sông và sống dưới nước phân bố ở sông suối hoặc các vực nước khác. Rừng đầm lầy nước ngọt mọc ở các khu vực có đất liên tục bị bão hòa nước. Những khu rừng này có lẽ một thời đã che phủ các khu vực rộng lớn của vùng châu thổ nhưng những hoạt động của con người đã làm giảm đáng kể vùng phân bố của chúng và làm thay đổi cả thành phần của những khu rừng này. Các đầm lầy có tràm, đặc trưng bởi cây tràm (Melaleuca cajuputi), một thành viên của họ sim (Myrtaceae), mọc trong các khu vực ngập nước theo mùa của châu thổ, nơi có hàm lượng muối thấp, có tích lũy các chất hữu cơ bị phân hủy và nhờ nước lụt mang hạt cây đến. Tràm là cây thường xanh, mảnh được bao bọc bởi vỏ cây dày, trắng và lờm xờm và có hoa màu trắng giống như bàn chải để cọ chai lọ. Quả của chúng giải phóng hạt vài ngày sau khi bị đốt nóng do những đám cháy trong bụi cây. Tràm có thể mọc trên cát thạch anh không màu mỡ cũng như trên vùng đồng cỏ bị xuống cấp nhưng chúng thích sống ở các bờ sông ngập nước và trong khu vực phù sa ven biển. Chúng thường chiếm ưu thế trong quần xã, mọc thành rừng khá thuần nhất. Các khu rừng này hiện chiếm 30.000ha ở tỉnh Long An và 7.000ha ở tỉnh Đồng Tháp, với những khu rừng rộng nhất phân bố ở vùng đất ngập nước U Minh và các khu rừng nhỏ hơn phân bố ở vùng Đồng Tháp Mười và đồng bằng Hà Tiên.

Mặc dù có mức độ đa dạng thực vật thấp, các khu rừng này là một phần không thể thiếu được của hệ sinh thái. Chúng làm giảm bớt lượng nước chảy trong mùa mưa, giữ nước ngọt trong mùa khô, giảm tính axit của đất và là môi trường sống cho nhiều loài sinh vật nước cũng như các động vật hoang dã, trong đó có ong. Mật ong hoang dã sống trong rừng tràm có giá trị cao và tràm nở hoa rất nhiều và quanh năm. Các khu rừng tràm cũng là nguồn cung cấp củi đốt, gỗ cho xây dựng và làm thức ăn cho gia súc; các phần của cây tràm dùng làm dây thừng, lưới đánh cá, bè gỗ; và dầu trưng cất từ lá của nó được sử dụng làm phân, thuốc đuổi côn trùng, chất thơm và để chữa nhiều loại bệnh (thấp khớp, viên gan, các bệnh ngoài da và các bệnh về hô hấp). Vì tràm không cần trồng trên đất nền cao, nó rất phù hợp để trồng trong các loại đất có axit sunphat và là sự lựa chọn tự nhiên cho các chương trình trồng rừng sau chiến tranh Mỹ-Việt Nam.

Khu vực đất ngập nước U Minh nằm trong những vùng đất ngập nước quan trọng nhất về mặt bảo tồn đa dạng sinh học của vùng châu thổ sông Mê Kông bởi vì, bên cạnh việc có các khu rừng tràm rộng lớn nhất, nó là nơi duy nhất có các khu rừng đầm lầy than bùn. Than bùn được hình thành khi lượng tích trữ các thực vật chết trong một khu vực vượt quá tốc độ phân hủy của nó. Trong điều kiện thời tiết nhiệt đới, hiện tượng này thường diễn ra ở các khu vực bằng phẳng, ngập nước với lượng mưa cao có các chướng ngại tự nhiên để ngăn việc thoát nước. Khi thực vật bị phân hủy một phần tích trữ lại, rễ cây dần dần bị tách ra khỏi tầng đất phía dưới và môi trường sống của chúng có tính axit ngày càng tăng và nghèo ôxi cũng như chất dinh dưỡng. Cuối cùng, bề mặt than bùn nhô cao lên khỏi mực nước bên dưới tạo thành vòm và đóng vai trò làm nơi chứa nước. Hạn chế lượng nước chảy là nhân tố quan trọng cho việc phát triển của than bùn vì nó ngăn chất dinh dưỡng và chất khoáng từ bên ngoài xâm nhập vào hệ thống này. Tại giai đoạn này, thực vật chỉ có thể lấy chất dinh dưỡng và chất khoáng từ tầng than bùn hoặc từ mưa, cả hai nguồn đều nghèo nàn. Thên vào đó, thực vật phân hủy tạo ra cả axit hữu cơ và vô cơ và không còn có thể làm trung hòa bằng cacbonat canxi có trong nước ngầm. Môi trường được hình thành có hàm lượng ôxi thấp, ít chất dinh dưỡng và có tính axit cao, tất cả các đặc điểm này ngăn cản việc phân hủy và phân rã và tạo điều kiện cho than bùn tích lũy thêm. Không giống như than bùn ở vùng ôn đới, chủ yếu được tạo thành từ rêu và cói, than bùn ở vùng nhiệt đới có chứa cả cành cây, thân cây và rễ cây đã phân hủy một phần ở trong cùng các chất hữu cơ không có cấu trúc cũng có nguồn gốc từ thực vật. Than bùn đen xốp ở U Minh có chiều dày 1-3m và các vòm của nó là cấu trúc tự nhiên dày nhất trong khu vực.

Chặt rừng không được kiểm soát giữa năm 1975 và 1985 và những xáo trộn khác làm cho các khu rừng đầm lầy than bùn gần như bị biến mất. Sau đó, chính phủ hạn chế sự tiếp cận vào khu vực này và áp dụng các chiến lược quản lý tốt hơn, trong đó có việc duy trì các mực nước bằng một hệ thống kênh rạch và đê bao quanh vùng trung tâm. Vào mùa xuân năm 2002, một đám cháy khủng khiếp đã làm tiêu rụi gần 200 ha tại U Minh xuống tới tận lớp đất sét và phá hủy tầng than bùn phía trên. Các lớp than bùn tương đối nhạy cảm với các thay đổi và rất dễ cháy trong mùa khô. Khi than bùn khô, nó trở nên mỏng và bị ôxi hóa dẫn đến việc tạo ra axit sunphuaric. Nước ở trong khu vực trung tâm rừng gần như trung tính với độ pH từ 6 đến 7 so với nước có tính axit với độ pH từ 3 đến 4 ở vùng đệm không có rừng. May mắn là rừng tái sinh bắt đầu diễn ra trong vòng 6 tháng trên một diện tích đáng kể của khu vực này.

Các khu rừng ngập mặn mọc trong những vùng bị ngập nước có hàm lượng muối cao hơn so với các khu rừng đầm lầy phân bố dọc theo bờ biển và các cửa sông ở miền Nam Việt Nam (hình 54). Loài, Avicennia alba, chiếm ưu thế trong các quần xã rừng ngập mặn sống gần biển nhất và gần như thường xuyên bị ngập nước mặn. Các loài ngập mặn đỏ chi Rhizophora phân bố ngay phía trong về phía đất liền của các khu rừng này. Ở các vùng khô hơn, thành phần của quần xã lại thay đổi. Các vùng nước lợ gần với khu vực nước ngọt nhất là nơi phân bố của các loài cọ thuộc chi Nypa.

Rừng ngập mặn tạo thành mắt xích về mặt sinh thái nối giữa các hệ sinh trên cạn và hệ sinh thái biển. Có chức năng về mặt sinh thái giống như quả thận, chúng lọc nước ngọt trước khi nó chảy ra biển, đóng vai trò là vườn ươm cho cá mới nở và giúp ngăn cản sự sói mòn và ngập úng do thủy triều và bão gây ra. Rừng ngập mặn ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người dân địa phương; 1 ha rừng ngập mặn có thể đóng góp xấp xỉ 44 tấn cá ngoài khơi mỗi năm.

Các quần xã rừng ngập mặn rộng đến 30km đã có thời xuất hiện tại bán đảo Cà Mau. Mặc dù khó đánh giá những thay đổi đối với các quần xã rừng ngập mặn qua nhiều thời kỳ vì rừng ngập mặn ít khi được vẽ chi tiết trên bản đồ, tỷ lệ mất rừng lên đến 75% đã được ghi nhận ở bán đảo Cà Mau và các khu rừng ngập mặn còn lại hầu hết đã bị xuống cấp. Sự suy giảm của rừng ngập mặn ở đây ở đây gây ra từ 3 nguyên nhân chính. Đầu tiên là việc sử dụng bom napalm và chất gây rụng lá trong cuộc chiến tranh Mỹ-Việt Nam đã phá hủy nhiều khu rừng lớn. Trong các thập kỷ cuối của thế kỷ 20, rừng ngập mặn bị phát quang để làm ao nuôi tôm, gây ra những vấn đề nghiêm trọng như sói mòn phía trong bờ và làm giảm sản lượng cá do các khu vực ươm cá con bị phá hủy. Khi rừng ngập mặn bị mất đi, việc đánh cá đòi hỏi phải có những nỗ lực lớn hơn và những đoàn thuyền lớn hơn để khai thác các quần thể cá tự nhiên bị giảm sút. Cuối cùng là việc di cư của những người không có đất từ những khu vực khác ở Việt Nam đã càng làm tăng thêm việc sử dụng quá mức các khu rừng này để làm gỗ, củi đun và than củi. May mắn là ở một số khu vực rừng ngập mặn bắt đầu mọc tự nhiên trở lại và ở các khu vực khác việc trồng lại rừng đang được tiến hành một cách tích cực.

Một số loại đồng cỏ – các quần xã có các loài cói (họ Cyperaceae) và cỏ (họ Poaceae) chiếm ưu thế – phân bố trong vùng châu thổ, ở trong cả các loại đất có axit sunphat và đất phù sa (hình 55). Mặc dù vùng đồng cỏ thường bị bỏ qua trong các chương trình bảo tồn và được cho là vùng đất không có giá trị trong các kế hoạch phát triển, nó là nơi cư trú của nhiều loài thực vật và động vật và là các thành phần quan trọng trong đa dạng sinh học của khu vực. Theo một nghiên cứu ở đồng bằng Hà Tiên, các quần xã thực vật đa dạng nhất là đồng cỏ, bao gồm 94 loài cỏ và cói.

Các vùng ven biển và vùng biển ở miền Nam Việt Nam có rất nhiều loại môi trường sống, từ những bãi cỏ biển có mức độ đa dạng thấp ở các khu vực nước nông trên thềm lục địa Sunda nơi sinh sống của các quần thể bò biển (Dugong dugon) đến các rạn san hô, đặc biệt là ở Côn Đảo.

Không giống với miền Bắc và miền Trung của Việt Nam, chỉ có ít các loài động vật phân bố ở đây chỉ sống ở khu vực này, không có loài nào là đặc hữu cho Việt Nam và chỉ có một vài loài đặc hữu ở vùng Đông Dương. Các khu rừng rụng lá một mùa vùng đồng bằng chiếm ưu thế trong khu vực cũng có phân bố rộng tại lục địa Đông Nam Á và kéo dài đến Campuchia, Thái Lan, và lên phía Bắc tới Lào và Myanmar. Như vậy, các loài động vật trong khu vực này của Việt Nam rất có thể cũng phân bố trong các loại môi trường sống tương tự ở những nơi khác. Điều này có thể do các quần thể ở vùng đồng bằng khó bị tách biệt hơn so với các loài sống ở trên núi và như vậy làm giảm khả năng phân hóa và tăng xác suất của việc phân tán trong môi trường sống đồng nhất. Trong số ít những loài của Việt Nam chỉ sống ở miền Nam, như cầy bay (Cynocephalus variegatus), một loài thú hoạt động vào ban đêm và sống trên cây có khả năng bay lượn, phần lớn cũng có phân bố ở phía Nam tại bán đảo Mãlai và các đảo Sumatra, Java và Borneo.

Một lý do quan trọng mặc dù không mang ý nghĩa sinh học cho số lượng loài thấp và ít loài đặc hữu ở miền Nam là hầu hết toàn bộ hệ sinh thái, đặc biệt là châu thổ sông Mê Kông rộng lớn, đã bị biến đổi rất nhiều vì các hoạt động nông nghiệp trong hơn 200 năm qua. Điều này có nghĩa là phần lớn đất ngập nước đã bị mất thậm trí trước khi những cuộc điều tra cơ bản được tiến hành. Kết hợp với những sức ép lớn từ việc săn bắn, việc mất môi trường sống đã dẫn tới sự suy giảm và trong một số trường hợp gây ra sự tuyệt chủng của các loài phụ thuộc vào đất ngập nước. Các loài chim cư trú trong vùng đất ngập nước và sinh sản trong vùng châu thổ đã bị ảnh hưởng nhiều nhất. Loài cò quăm lớn (Pseudibis gigantea) thuộc loại cực kỳ nguy cấp, mặc dù chưa bao giờ phổ biến, hiện trên thực tế đã tuyệt chủng ở trong nước. Chỉ có 2 ghi nhận gần đây ở Việt Nam và cả hai quần thể này đều được cho là không thể tồn tại được. Săn bắt cũng đã làm thay đổi hoàn toàn quần xã thú lớn ở đây. Tê giác một sừng có môi trường sống ưa thích là rừng ẩm ở vùng đồng bằng, đặc biệt là gần sông suối, có thời đã phân bố trong toàn bộ vùng phía Nam. Hiện nó chỉ còn lại ở một địa điểm, Vườn Quốc gia Cát Tiên, và có lẽ là quần thể duy nhất còn tồn tại ở lục địa Đông Nam Á.

Các loài thú ở miền Nam Việt Nam rất ít được biết đến. Các nhà khoa học đã ghi nhận hơn 50 loài động vật trên cạn (không kể dơi) và 31 loài động vật sống dưới nước tại miền Nam kể từ khi bắt đầu có những cuộc thám hiểm đến khu vực này vào cuối thế kỷ 19. Các loài thú này bao gồm những loài thích nghi với môi trường ngập nước theo mùa và các loài thú sống dưới nước thường phân bố ở biển, cửa sông và trong nước ngọt dọc theo sông Mê Kông, bờ biển và các đảo ngoài khơi. Sông Mê Kông hiện là nơi cư trú có một số ít các loài thú. Hổ (Panthera tigris), chó sói lửa (Cuon alpinus), voi (Elephas maximus), gấu chó (Ursus malayanus) và trâu rừng (Bubalus arnee) hiện đã tuyệt chủng ở vùng này (trâu rừng đã bị tuyệt chủng trong nước). Chỉ có 2 loài linh trưởng có phân bố ở đây: khỉ đuôi dài (Macaca fascicularis) và voọc bạc (Trachypithecus villosus). Các báo cáo cho là vượn mũ (Hylobates [Nomascus] pileatus) có phân bố trên đảo Phú Quốc (nằm ở ngoài khơi của Campuchia trong vịnh Thái Lan) đã bị phủ nhận.

Mặc dù miền Nam không có các loài thú đặc hữu, có 3 phân loài đặc hữu sống ở Côn Đảo nằm ngoài khơi bờ biển phía Đông Nam. Một phân loài của khỉ đuôi dài (M.f. condorensis) và hai phân loài sóc, sóc đen Côn Đảo (Ratufa bicolor condorensis) và sóc đỏ Côn Đảo (Callosciurus finlaysonii germaini). Một phân loài khác của sóc đỏ (C. f. harmandi) có phân bố giới hạn tại một đảo lớn khác ở miền Nam Việt Nam là đảo Phú Quốc.

Rái cá lông mũi ( Lutra sumatrana )

Là loài hiếm nhất trong số 4 loài rái cá của Việt Nam, rái cá lông mũi là loài đặc hữu ở Đông Nam Á (hình 56). Rái cá là các thành viên duy nhất thực sự sống nửa nước nửa cạn của họ chồn (Mustelidae) và mặc dù các loài khác nhau có bề ngoài giống nhau, chúng thường có các đặc điểm chuyên hoá rõ ràng về cấu trúc xã hội cũng như tập tính cho phép chúng cùng tồn tại mà không cạnh tranh với nhau. Rái cá lông mũi có tên bắt nguồn từ cái đệm mũi rất đặc biệt của nó. Nó có lông che phủ hoàn toàn trừ một vòng nhỏ bao quanh mỗi lỗ mũi (phần lớn các loài rái cá có ít nhất một phần mũi không có lông). Lông của nó có màu nâu sôcôla sẫm phía trên và hơi nhạt hơn ở phía dưới, với màu trắng vàng tương phản trên môi, cằm và cổ họng. Thân của nó dài 0.6-0.82m và cái đuôi nhọn của nó dài bằng khoảng nửa phần thân. Là loài rái cá có kích thước trung bình với các móng có màng và khỏe, dấu chân của rái cá lông mũi không thể phân biệt một cách chắc chắn với dấu chân của 2 loài rái cá có móng chân khỏe khác của Việt Nam, rái cá thường (Lutra lutra) và rái cá lông mượt (Lutrogale persipicillata).

Đặc điểm sinh thái và tập tính của rái cá lông mũi vẫn gần như hoàn toàn chưa được biết tới. Nó có lẽ là loài ăn thịt tùy theo cơ hội, ăn cá cũng như ếch, cua và các loại mồi khác mà nó bắt gặp. Rái cá lông mũi có thể có các đặc điểm chung giống với các thành viên khác trong cùng giống của nó. Các loài này là động vật ăn thịt định hướng bằng mồm, đuổi theo cá ở dưới nước và bắt cá bằng móng của chúng. Chúng phát hiện mồi nhờ sự trợ giúp của râu khứu giác cứng nằm trên mõm và khửu tay có thể phát hiện được những dao động dưới nước. Các loài thuộc giống Lutra chủ yếu sống một mình; con đực và con cái chỉ ghép đôi trong một thời gian ngắn để sinh sản nhưng không có quan hệ ghép đôi vững chắc. Đánh dấu bằng mùi là một đặc điểm cực kỳ quan trọng ở tất cả các loài rái cá và ở những khu vực chúng sống thường có mùi xạ rất rõ rệt. Một đôi tuyến mùi nằm ở gốc đuôi được sử dụng cho cả việc liên lạc lẫn việc đánh dấu vùng lãnh thổ và đánh dấu lãnh thổ bằng phân và nước tiểu cũng được chúng sử dụng.

Rái cá lông mũi trước đây có phân bố ở Campuchia, Nam Thái Lan, bán đảo Mãlai, Sumatra và phía Bắc Borneo cũng như miền Trung và miền Nam Việt Nam. Tại Việt Nam, nó hiện chỉ sống ở khu vực U Minh của châu thổ sông Mê Kông, nơi chúng gần đây được phát hiện lại lần đầu tiên sau một vài thập kỷ (khung 14). Môi trường sống ưa thích của loài động vật khó tiếp cận này vẫn ít được biết đến, nhưng ghi nhận vào năm 1991 từ bán đảo Mãlai cũng như những báo cáo sau đó từ Campuchia, Thái Lan và Việt Nam gợi ý là loài này có thể thích sống trong các vùng nước chảy chậm có rừng bao phủ, trong đó có rừng đầm lầy than bùn. Vì chủ yếu sống dưới nước, rái cá lông mũi có thể rất dễ bị ảnh hưởng bởi các chất gây ô nhiễm có trong nước có thể làm giảm số lượng con mồi và có thể tích lũy trong các mô của rái cá. Chúng cũng bị ảnh hưởng mạnh do việc chuyển đổi thành đất nông nghiệp, chặt cây và cháy rừng vì các hoạt động này làm mất các môi trường sống có rừng bao phủ và có thể gây ra sói mòn và làm đục sông suối. Rái cá cũng bị săn bắt, chủ yếu để lấy da.

Rái cá vuốt bé (Aonyx cinerea) cũng phân bố ở châu thổ sông Mê Kông và có thể là rái cá lông mượt (Lutrogale perspicillata) vẫn còn sống ở đây. Rái cá lông mũi còn được biết đến rất ít để có thể đánh giá tình trạng bảo tồn.

Tê giác một sừng ( Rhinoceros sondaicus annamiticus )

Năm loài tê giác hiện còn lại trên thế giới, 2 loài sống ở châu Phi và 3 ở châu Á. Hai trong số này, tê giác lông (Dicerorhinus sumatrensis) và tê giác một sừng, có thể đã phân bố ở Việt Nam nhưng ít có bằng chứng về sự xuất hiện của tê giác lông ở trong nước. Tê giác một sừng có kích thước tương đối nhỏ trong nhóm này, nặng 1.500-2.000kg. Ba nếp gấp da dễ nhận thấy tạo cho nó có bề ngoài giống như mặc áo giáp (hình 57). Các con đực của loài này có một sừng duy nhất, dài khoảng 20cm. Hình dạng bên ngoài của con cái giống với con đực nhưng không có sừng rõ ràng và có lẽ lớn hơn con đực.

Tê giác một sừng có lẽ trước đây đã phân bố ở các đảo Java và Sumatra, lục địa Đông Nam Á và nhiều vùng ở Ấn Độ. Các quần thể của loài này đã có mặt trên khắp đất nước cho đến những năm 1930 và 1940. Bất chấp những tin đồn về sự tồn tại của loài động vật này, nhiều người cho rằng tê giác một sừng đã bị tuyệt chủng sau chiến tranh Mỹ-Việt Nam. Do đó, vào năm 1988 mọi người đã sửng sốt khi biết một người thợ săn cố bán sừng và da của một cá thể tê giác một sừng mới chết. Quan sát của người địa phương, dấu chân và mẫu phân đã xác định được một quần thể nhỏ vẫn còn ở vùng Cát Lộc thuộc Vườn Quốc gia Cát Tiên. Các bức ảnh đầu tiên của những con thú khó tiếp cận này được chụp vào năm 1999 từ các bẫy máy ảnh trong vườn. Quần thể này là 1 trong số 2 quần thể được biết của tê giác một sừng trên thế giới, mỗi quần thể đại diện cho một phân loài riêng biệt: R. s. annamiticus với một quần thể gồm 5 đến 8 cá thể ở Việt Nam và R. s. sondaicus, đại diện bởi 50 đến 60 cá thể ở Java.

Các cá thể ở Cát Tiên sống trong rừng thường xanh và bán thường xanh có tre chiếm ưu thế tại độ cao 300-600m, mặc dù trước đây chúng sống ở nhiều loại môi trường sống khác nhau trong rừng. Mặc dù tê giác thường sống một mình, chúng đôi khi tụ tập lại tại các bãi bùn nơi chúng đằm mình để điều chỉnh nhiệt độ và hạn chế vật ký sinh. Chúng thường xuyên tới các bãi liếm để uống nước có nhiều chất khoáng. Thức ăn ưa thích có lẽ là cây nhỏ và cây bụi mà chúng lấy bằng lưỡi có thể cầm nắm được, nhưng thức ăn sẵn có trong các môi trường sống ở mép rừng mà chúng đang ở không đủ. Những mối đe dọa chính đối với các cá thể này bao gồm săn trộm và mất cũng như sự phân tách nhỏ môi trường sống, mặc dù săn trộm đã giảm vì số lượng cực kỳ thấp, một phần vì thợ săn ít khi bắt gặp tê giác. Việc thành lập Vườn Quốc gia Cát Tiên vào năm 1998 đã phần nào ngăn chặn được việc mất môi trường sống nhưng sự thiếu phối hợp giữa các hoạt động phát triển bên trong vườn và một vùng đất dùng để phát triển nông nghiệp thâm canh và ngăn cách giữa hai khu vực của vườn tiếp tục gây ra nhiều vấn đề. IUCN đã xếp tê giác một sừng vào loại cực kỳ nguy cấp.

Bò biển ( Dugong dugon )

Bò biển là 1 trong 4 thành viên còn sót lại của bộ Sirenia, một nhóm có 3 loài lợn biển phân bố ở các con sông và vùng ven biển của Tây Phi và châu Mỹ (hình 58). Cùng với voi (hai loài thuộc bộ Proboscidea) và chuột hyrax (3 loài thuộc bộ Hyracoidea), các loài thuộc bộ Sirenia là những đại diện cuối cùng của một nhóm thú móng guốc cổ đại, có tên là Paenungulate, xuất hiện cách đây 65 triệu năm. Dugong không giống các loài khác ở chỗ nó là loài thú ăn cỏ duy nhất chỉ sống ở nước măn, mặc dù đôi khi nó có xuất hiện ở các vùng cửa sông. Bò biển gần như chỉ ăn cỏ biển mọc ở các vùng nước nông ven bờ tại khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Phi, châu Á và châu Úc.

Bò biển có kích thước lớn, trông vụng về và hơi giống con lai giữa một con cá heo bụ bẫm và một con moóc. Con trưởng thành có chiều dài trung bình 2.7m và nặng trung bình 250-300kg, toàn bộ da có màu xám và rải rác có lông nhỏ. Chúng không có chân sau và vây lưng; chân trước của chúng có dạng mái chèo, ngắn, không có móng và thùy đuôi tách đôi giống như ở cá heo. Đặc điểm đáng chú ý nhất của Dugon là cái đầu khổng lồ của nó cho thấy các đặc điểm thích nghi đặc biệt với đời sống ăn cỏ và kiếm ăn dưới đáy nước. Mõm có kích thước lớn của nó hướng xuống phía dưới có dạng một cái đĩa linh động có các hàng râu dùng để tìm thức ăn trên đáy biển. Các con đực, đôi khi sống lâu hơn con cái, có răng nanh giống như ngà voi trồi ra qua môi dưới của mõm. Chức năng của răng này chưa rõ ràng – có lẽ là chúng không được dùng để ăn. Chúng có thể được sử dụng trong các hoạt động xã hội, trong đó có ve vãn con cái, ghép đôi, bảo vệ lãnh thổ và cạnh tranh với các con bò biển khác.

Dugong dành phần lớn thời gian kiếm ăn trên các bãi cỏ biển. Chúng ăn có chọn lọc và thường chỉ ăn một số loài cỏ biển và đặc biệt thích ăn các loài sống được trong nhiều loại môi trường hoặc xâm nhập từ nơi khác. Sự chọn lọc này dẫn tới thức ăn của chúng có ít chất xơ và có hàm lượng nitơ cao và được phân hủy nhờ các vi sinh vật trong đường tiêu hóa dài của chúng. Bò biển thích nhổ cả rễ cây từ đáy biển nếu có thể được. Tập tính kiếm ăn này tạo ra các đường vết ăn uốn lượn dễ nhận ra ở các bãi cỏ biển thường có thể nhìn thấy khi thủy triều thấp. Vì sở thích về môi trường sống và tập tính kiếm ăn, bò biển thường sống ở những vùng nước đục và do đó rất khó có thể quan sát và đếm được số lượng của chúng. Tập tính ghép đôi khác nhau giữa các khu vực địa lý; ở một số quần thể nhiều con đực tranh giành kịch liệt với nhau để ghép đôi với một con cái đang trong thời kỳ giao phối và ở các quần thể khác con đực tập trung ve vãn con cái và bảo vệ các vùng lãnh thổ nhỏ bé ở cạnh nhau và các con cái chỉ đến để giao phối vì những khu vực này không có bất cứ nguồn lợi nào khác. Con cái có con đầu tiên tương đối muộn, giữa năm 10 tuổi và 17 tuổi, mặc dù một số ít sinh sản từ năm 6 tuổi. Thời kỳ mang thai kéo dài từ 13 đến 15 tháng và thời kỳ cho con bú kéo dài 14 đến 18 tháng làm cho giai đoạn giữa hai thời kỳ mang thai kéo dài từ 2 năm rưỡi đến 7năm. Con bò biển hoang dã sống lâu nhất được ghi nhận là một con cái 73 tuổi.

Trước đây vùng phân bố của bò biển có liên hệ chặt chẽ với khu vực phân bố của các loài thực vật là thức ăn của chúng. Phạm vi phân bố của chúng bao gồm các vùng gần bờ biển nằm trong 37 nước và vùng lãnh thổ, kéo dài từ bờ biển phía Đông của châu Phi qua châu Á và phía Bắc Ôxtraylia đến New Caledonia. Phân bố của chúng không đồng đều trên toàn bộ vùng phân bố này, phản ánh chất lượng của môi trường sống không đồng nhất và các tác động từ hoạt động của con người. Bò biển có lẽ đang giảm sút về số lượng trên toàn bộ vùng phân bố của chúng. Tại Việt Nam, quần thể duy nhất được xác nhận là một đàn nhỏ gồm hơn 30 con quan sát được ở Vườn Quốc gia Côn Đảo, mặc dù các bằng chứng gợi ý rằng chúng tồn tại ở các môi trường sống thích hợp khác quanh đảo Phú Quốc và các vùng nước ven bờ ở nước láng giềng Campuchia. Mối đe dọa chủ yếu đối với bò biển là săn bắt; chúng dễ bị bắt, thịt của chúng được cho là ngon và có giá trị trong thuốc truyền thống. Chúng cũng dễ bị tác động do bị bắt ngẫu nhiên trong lưới đánh cá và việc mất các bãi cỏ biển do dùng lưới rà và do bão. Do tỷ lệ sinh sản thấp, các quần thể của bò biển sẽ bị đe dọa nếu có sự gia tăng về tỷ lệ tử vong của con trưởng thành. IUCN xếp bò biển vào loại sắp nguy cấp.

Chim

Sông Mê Kông và vùng châu thổ của nó là các môi trường sống quan trọng cho các loài chim cư trú và chim di cư. Các con số được thu thập được trong khu vực này kể từ năm 1988 ghi nhận 247 loài và 20 loài trong số này được IUCN xếp vào loại bị đe dọa toàn cầu hoặc gần bị đe dọa. Xấp xỉ 1/3 các loài chim là chim di cư và 1/2 phụ thuộc vào các vùng đất ngập nước (trong đó có chim chích, Acrocephalus). Mức độ đa dạng cao nhất tập trung ở các vùng đồng cỏ và vùng đầm lầy ngập nước theo mùa tại U Minh, đồng bằng Hà Tiên và Đồng Tháp Mười. Các khu vực này bao gồm một số các loại môi trường sống cuối cùng còn sót lại của các loài chim nước sống chuyên hóa và làm tổ trên cây, như già đẫy Java (Leptoptilos javanicus; thuộc loại gần nguy cấp), hạc cổ trắng (Ciconia episcopus), cò trắng Trung Quốc (Egretta eulophotes; thuộc loại gần nguy cấp) và quắm đen (Plegadis falcinellus). Một số loài chim di cư một thời đã sinh sản trong vùng châu thổ nhưng hiện không còn làm tổ ở đây, trong đó có sếu đầu đỏ (Grus antigone sharpii; thuộc loại gần nguy cấp), cò lạo Ấn Độ (Mycteria leucocephala; thuộc loại gần bị đe dọa) và bồ nông chân xám (Pelecanus philippensis; thuộc loại gần nguy cấp).

Sông Mê Kông và các sông nhánh của nó nằm ở vùng đồng bằng tại Việt Nam, Campuchia và phía Nam của Lào là môi trường sống quan trọng cho một loạt các loài chim riêng biệt sống ở sông, trong đó có te cựa (Vanellus duvaucelii), nhàn bụng đen (Sterna acuticauda; thuộc loại gần bị đe dọa) và diều hâu (Milvus migrans). Tuy nhiên, tại Việt Nam các môi trường sống này phần lớn đã bị xuống cấp ngoại trừ khả năng là các khu vực thuộc tỉnh Đắc Lắc thuộc miền Trung Việt Nam. Tất cả 3 loài này một thời đã là các loài chim cư trú ở miền Nam Việt Nam; hiện nay tình trạng của chúng ở đây không rõ ràng.

Đáng chú ý là, 4 trong số 5 loài chim đặc hữu ở Đông Dương sống ở phía Nam có phân bố trong các khu rừng thường xanh, bán thường xanh và (trong một số ít trường hợp) rừng tre. Một trong số các loài này, gà so cổ hung (Arborophila davidi; thuộc loại nguy cấp), cho đến gần đây vẫn được cho là đặc hữu trong các khu rừng ở vùng Đông Bắc miền Nam Việt Nam. Vào đầu năm 2002, một bẫy ảnh được đặt ở một vùng xa xôi tại tỉnh Mondulkiri nằm ở phía Đông Campuchia gần biên giới Việt Nam đã chụp được ảnh loài này. Loài này hiện có lẽ là phổ biến ở mức độ địa phương tại các độ cao lên tới 250m trong các vùng phân bố hẹp. Hai loài khác có vùng phân bố hẹp cũng sống ở đây, gà tiền mặt đỏ (Polyplectron germaini) và chích chạch má xám (Macronous kelleyi) thuộc loại gần bị đe dọa. Một loài đặc hữu trong các vùng đất ngập nước và phân bố trong các khu rừng trống này, loài quắm lớn, đang sắp bị tuyệt chủng ở Việt Nam.

Ô tác Đông Nam Á

( Houbaropsis bengalensis blandini )

Ô tác là loài chuyên sống trong các khu vực đồng cỏ ẩm và không bị ngập nước trong một thời gian dài (hình 59). Đây là loài ô tác duy nhất (họ Otididae) sinh sản tại vùng lục địa Đông Nam Á. Có kích thước như các loài vịt lớn, lông của con đực trong thời kỳ sinh sản chủ yếu có màu đen và cánh chủ yếu có màu trắng dễ nhận thấy khi chúng bay và khi khép lại ở cạnh thân. Các lông dài màu đen trên đầu, cổ và lưng dựng lên khi chúng biểu diễn trên không tạo cho chúng có hình dạng hơi giống cái chổi. Trái lại, các con cái trưởng thành mặc dù lớn hơn con đực (1,7-1,9kg so với 1,25-1,5kg) có màu ít sặc sỡ hơn với khoang trắng trên cánh chỉ nhìn thấy được khi bay. Các con non trông gần giống con cái trưởng thành nhưng có màu nhạt hơn. Mặc dù bay giỏi, ô tác thích đi hoặc chạy trên mặt đất. Thức ăn của chúng thay đổi theo loại thức ăn sẵn có và có thể bao gồm côn trùng, quả dâu, mầm cỏ và hoa.

Sự khác nhau về màu lông giữa con đực và con cái phản ánh các vai trò khác nhau của chúng trong việc ghép đôi bừa bãi. Trong mùa khô và trước mùa sinh sản, các con đực thiết lập các vùng lãnh thổ riêng biệt (2-28ha) với một khu vực trung tâm nhỏ có cỏ thấp nơi chúng kiếm ăn và biểu diễn cho con cái. Điểm đáng chú ý nhất là bài biểu diễn trên không mang tính cường điệu trong đó con đực bay cao 3-4m trên mặt đất, hạ xuống và rồi lại bay lên trước khi bay xuống đất trong một khoảng cách dài 15-25m. Bài biểu diễn trên không này có kèm theo những tiếng kêu chích chích chích bắt đầu tại điểm bay lên cao đầu tiên và những tiếng đập cánh ầm ĩ trong lần hạ xuống đầu tiên. Chúng biểu diễn không thường xuyên (xấp xỉ 1 đến 3 lần trong 1 giờ) vào lúc bình minh và lúc chạng vạng tối. Con đực biểu diễn khi có con cái hoặc con đực và khi có tiếng kêu của các loài chim khác. Các hình thức biểu diễn khác bao gồm đứng biểu diễn với lông cổ dựng lên (thường diễn ra trước khi biểu diễn trên không) và đi với cái đầu gật lên xuống để ve vãn con cái.

Tập tính của con cái bí ẩn hơn nhiều và đến nỗi gần như không thể tính được tỷ lệ đực cái của một quần thể nhất định. Con cái đến lãnh thổ của con đực một mình và trong một thời gian ngắn để giao phối cũng như để kiếm ăn. Chúng thường đẻ một ổ hai trứng bóng và có màu ôliu –xanh lá cây với các chấm mầu nâu-đỏ tía. Chúng đẻ ngay xuống mặt đất ở giữa vùng thực vật rậm rạp và tách biệt khỏi vùng lãnh thổ của con đực. Con đực không chăm sóc con non và con non thuộc loại sớm dưỡng, có khả năng đi (và chạy) và tự ăn chỉ một thời gian ngắn sau khi chúng nở. Mùa sinh sản kết thúc kết thúc khi mùa mưa đến vào mùa hè. Khi đó chúng có thể di chuyển đến các vùng đồng cỏ cao gần đó hoặc di cư một khoảng cách ngắn để tránh lụt.

Hai phân loài của ô tác có phân bố ở châu Á. Phân loài ở Ấn Độ (H. b. bengalensis) có 300-400 cá thể sống thành các quần thể bị chia nhỏ ở vùng Đông Bắc Ấn Độ và Nepal. Phân loài ở Đông Nam Á phân bố ở Campuchia và ở tỉnh Đồng Tháp và đồng bằng Hà Tiên thuộc châu thổ sông Mê Kông. Mặc dù quần thể ở Campuchia có thể có số lượng lên đến một nghìn con, tại Việt Nam loài này hiếm hơn nhiều và các nghiên cứu mới phát hiện ra các bằng chứng về sinh sản ở trong nước. Những mối đe dọa chủ yếu đối với chúng là mất và xuống cấp của vùng đồng cỏ ẩm đặc trưng này cũng như săn bắt để làm thức ăn và lấy trứng.

Các loài chim khác phụ thuộc vào đồng cỏ tại châu thổ sông Mê Kông bao gồm cú lợn lưng nâu (Tyto capensis), một loài chim ít được biết đến và sống ở những vùng nhỏ tại khu vực Đông Dương và di đầu trắng (Lonchura maja) sống tại Vườn Quốc gia Lò Go Xa Mát thuộc tỉnh Tây Ninh. IUCN xếp ô tác vào loại nguy cấp.

Sếu đầu đỏ ( Grus antigone sharpii )

Sếu đầu đỏ là loài chim bay có chiều cao lớn nhất thế giới; các cá thể trưởng thành có thể đứng cao gần 1.75m với sải cánh dài gần 3m. Bên cạnh kích thước lớn, đặc điểm đặc trưng nhất của sếu đầu đỏ là khoảng da trần màu đỏ ở hai bên và phía sau đầu và hơi kéo dài xuống cổ. Độ rộng của khoảng da trần và màu sắc của nó phụ thuộc vào những kích thích bên ngoài và các động cơ bên trong; thường là khoảng da này sặc sỡ hơn vào mùa sinh sản và khi biểu diễn. Phần còn lại của cơ thể có màu xám than chì và được phủ lông một cách đồng nhất, kể cả phần trên đỉnh đầu và các điểm nhỏ phía sau tai. Con đực và con cái có bề ngoài gần giống nhau, mặc dù con đực có xu hướng cao hơn con cái. Con non có màu nâu xám, có lông cả ở đầu và cổ, và màu lông ít sặc sỡ hơn có thể để bảo vệ chúng khỏi bị ăn thịt. Phân loài ở Đông Nam Á phân bố ở Việt Nam và các khu vực nhỏ ở Campuchia, Lào và Myanmar. Sếu đầu đỏ có thể ăn nhiều loại thức ăn trong đó có rễ cây và củ cây đào được nhờ cái mỏ của chúng cũng như các động vật có xương sống nhỏ (ếch, thằn lằn), động vật không xương sống và đôi khi ăn cá.

Tập tính đặc trưng nhất của sếu đầu đỏ là các bài nhảy phức tạp và song ca như kèn trompet. Tất cả các loài sếu đều nhảy, thực hiện nhiều bước nhảy và cúi, chạy và bay ngắn trong khi đó tung cỏ và cành và các vật nhỏ khác lên không trung rất nhịp nhàng. Chúng bắt đầu biểu diễn những động tác phức tạp này khi còn nhỏ và tiếp tục làm như vậy trong suốt cuộc đời. Nhảy múa có lẽ là để thực hiện các chức năng khác nhau, trong đó có quan hệ xã giao, tạo lập và duy trì các mối liên hệ giữa con đực và con cái và loại bỏ mọi sự căng thẳng. Tuy nhiên, sếu thường nhảy múa không vì một lý do cụ thể nào và việc nhảy múa khi đã bắt đầu có thể lan ra cả đàn. Song ca giống như kèm trompet và ầm ĩ được thực hiện do các các đôi sếu và được gọi là hợp xướng. Thường hay xuất hiện vào đầu mùa sinh sản, những tiếng kêu hợp xướng này là một phần của mối quan hệ ghép đôi và cũng có chức năng để đánh dấu lãnh thổ và để phản ứng với những kẻ xâm phạm lãnh thổ. Những tiếng kêu này là một trong vài cách có thể sử dụng để phân biệt con đực và con cái của sếu đầu đỏ trên thực địa: với mỗi tiếng của con đực con cái kêu 2 đến 3 tiếng, và khác với con cái, con đực nâng cánh lên trên lưng và hạ thấp các lông chính dài trên cánh của nó khi kêu. Sếu cổ đỏ tạo ra các tiếng kêu đặc trưng giống như kèn trompet từ khí quản bị biến đổi đặc biệt và cuộn lại; tạo ra những tiếng kêu to nhất trong các loài sếu, người ta có thể nghe thấy chúng từ khoảng cách hơn 1km.

Sếu đầu đỏ có đời sống một vợ một chồng, và nếu thuận lợi chúng có thể có sống với nhau cả đời. Cuộc sống một vợ một chồng đã hình thành cả hình thái (không có sự khác biệt về giới tính) và tập tính của chúng (tiếng kêu hợp xướng) và theo đó liên quan đến sinh thái, tuổi thọ và các điều kiện để sinh sản thành công. Mùa sinh sản của sếu đầu đỏ liên quan chặt chẽ với gió mùa ở Đông Nam Á và tại Campuchia mùa sinh sản có lẽ diễn ra từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 11. Trong mùa sinh sản, sếu đầu đỏ bảo vệ các vùng lãnh thổ trong các khu vực đất và trảng ngập nước theo mùa được bao quanh bởi các khu rừng dầu khô và chúng sẽ không sinh sản nếu mực nước quá thấp. Đôi chim sẽ xây tổ rất to, thấp và lộn xộn bằng cách nhổ các thực vật xung quanh, chất vào thành một đống lớn có đường kính ở phần đáy xấp xỉ 3m với nước bao bọc xung quanh. Con cái đẻ 2, đôi khi đẻ 3 quả trứng màu trắng và cả con đực và con cái cùng ấp. Con non rời khỏi tổ một thời gian ngắn sau khi nở nhưng vẫn tiếp tục được được bố mẹ cho ăn thậm chí sau khi chúng có thể tự ăn. Mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao, con non không bay cho đến khi chúng gần 3 tháng tuổi (85-100 ngày). Con non vẫn ở cùng với bố mẹ trong khi di chuyển đến các khu vực trú đông vào mùa khô. Ở nơi trú đông, sếu đầu đỏ sống trong một hỗn hợp môi trường sống bao gồm đất ngập nước nông, đồng cỏ ướt và các bãi cói khô. Tại thời điểm này chúng hình thành các đàn không chặt chẽ mặc dù đơn vị gia đình nói chung vẫn được giữ ổn định. Vào thời điểm bắt đầu của mùa sinh sản tiếp theo, con non sẽ di chuyển một mình hoặc đi cùng bố mẹ.

Sếu đầu đỏ trước đây có phân bố từ Pakistan đến Philipin và Ôxtrâylia. Các quần thể của phân loài sếu đầu đỏ ở Đông Nam Á đã giảm đáng kể xuống chỉ còn 500-1500 cá thể. Vào thời điểm xảy ra chiến tranh Mỹ- Việt Nam, chúng có lẽ biến mất khỏi vùng châu thổ vì các vùng đất ngập nước bị rút nước và phá rừng để làm giảm độ che phủ cho quân đội miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên vào năm 1984, chúng đã được phát hiện lại lần đầu tiên ở trong vùng đất ngập nước đã được hồi phục tại Đồng Tháp Mười. Để bảo vệ sếu và môi trường sống dễ bị ảnh hưởng của chúng, Khu Bảo tồn huyện Tràm Chim, nay là vườn quốc gia, đã được thành lập vào năm 1986. Các nỗ lực tiếp tục hồi phục khu vực này bằng cách tái tạo các dòng chảy tự nhiên là nền tảng tạo ra năng suất và mức độ đa dạng của hệ sinh thái.

Phân bố và sự di chuyển của sếu đầu đỏ vẫn còn ít được biết đến, nhưng chúng có lẽ sinh sản chủ yếu ở vùng phía Bắc và Đông Bắc Campuchia và tận cùng phía Nam của Lào. Chúng cũng đã thử sinh sản

0