24/05/2018, 20:42

Lý luận chung về xác định giá trị doanh nghiệp

Giá trị doanh nghiệp. Theo luật doanh nghiệp năm 1999 được sửa đổi và bổ sung năm 2004 của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì doanh nghiệp được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở ...

Giá trị doanh nghiệp.

Theo luật doanh nghiệp năm 1999 được sửa đổi và bổ sung năm 2004 của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì doanh nghiệp được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.

Ban đầu khi mới hình thành thị trường doanh nghiệp chỉ được coi là một tổ chức kinh tế thông thường chứ chưa được coi là một hàng hoá của nền kinh tế bởi nó chưa thực sự được đem ra trao đổi mua bán trên thị trường. Chỉ đến khi thị trường phát triển đến một mức độ nhất định, lúc này doanh nghiệp mới thực sự là một hàng hoá. Khi đã trở thành hàng hoá thì người ta bắt đầu quan tâm tới giá trị của doanh nghiệp. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào để xác định được giá trị doanh nghiệp? Và liệu giá trị của doanh nghiệp có đồng nghĩa với giá cả của nó không?

Theo C.Mác thì giá trị là sự kết tinh của lao động xã hội cần thiết trong hàng hoá, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị trên thị trường nhưng phụ thuộc vào quy luật cung cầu. Giá cả có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Đối với một doanh nghiệp cũng vậy, giá trị của doanh nghiệp chính là sự kết tinh của lao động xã hội cần thiết trong bản thân doanh nghiệp đó. Tuy nhiên, không phải như các hàng hoá thông thường mà doanh nghiệp là một loại hàng hoá đặc biệt, một cơ cấu phức tạp của nhiều yếu tố và các mối liên hệ giữa chúng. Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp có các mối quan hệ với các chủ thể trên thị trường. Chính các yếu tố bên trong, bên ngoài doanh nghiệp góp phần tạo nên giá trị doanh nghiệp.

Qua việc phân tích và nhận định trên ta có thể rút ra một số kết luận riêng về giá trị doanh nghiệp như sau:

Một là: giá trị doanh nghiệp là giá trị cá biệt, được xây dựng trên cơ sở mức hao phí lao động cá biệt của doanh nghiệp tạo nên, mỗi một doanh nghiệp có một đặc thù, một giá trị riêng và không một doanh nghiệp nào giống doanh nghiệp nào.

Hai là: giá trị doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là giá trị ghi trên sổ sách mà là giá trị được mọi người quan tâm đó chính là giá trị kinh tế. Nhà đầu tư khi tiến hành xem xét giá trị doanh nghiệp chủ yếu quan tâm tới khả năng thu được lợi nhuận trong tương lai.

Ba là: giá trị doanh nghiệp xác định được tại thời điểm định giá không phải là giá trị cuối cùng và duy nhất, nó có thể thay đổi theo thời gian, theo cung cầu và theo các biến động trên thị trường.

Hiện nay có nhiều quan niệm về giá trị. Mỗi quan niệm được tiếp cận ở những góc độ khác nhau. Tuy nhiên tựu chung lại thì có hai khái niệm được phổ biến hiện nay đó là:

Theo giáo sư W. SEABROKE Và N.WALKER, viện đại học PORTSMOUTH, vương quốc Anh:

“Định giá được hiểu là sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định rõ”.

Còn theo giáo sư Lim Lan Yuan, trường xây dựng và bất động sản, đại học quốc gia Singapore thì:

“Định giá được quan niệm là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một tài sản tại một thời điểm, có cân nhắc đến tất cả các đặc điểm của tài sản và cũng như xem xét đến tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường bao gồm các loại đầu tư lựa chọn”.

Vậy với hai khái niệm trên ta có thể hiểu định giá doanh nghiệp theo hai cách như sau: Thứ nhất, định giá doanh nghiệp là sự ước tính về giá trị của các quyền sở hữu tài sản cụ thể bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích đã được xác định rõ, đó là để đưa doanh nghiệp ra mua bán, hoặc để đầu tư vào doanh nghiệp…Thứ hai, định giá doanh nghiệp là một nghệ thuật hay khoa học về ước tính giá trị cho một mục đích cụ thể của một doanh nghiệp tại một thời điểm đó là thời điểm định giá, mà có cân nhắc đến tất cả các đặc điểm của doanh nghiệp và cũng như xem xét đến tất cả các yếu tố kinh tế căn bản của thị trường.

Đối với mỗi chủ thể khác nhau trên thị trường thì việc tiếp cận giá trị doanh nghiệp cũng với những mục đích khác nhau.

Đối với chủ sở hữu: Việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ giúp chủ sở hữu biết rõ được giá trị thực tế của doanh nghiệp, từ đó họ có thể lập các kế hoạch, chiến lược phát triển trong tương lai cho doanh nghiệp

Vấn đề chia tách sát nhập cổ phần hoá hoặc huy động vốn cũng trở lên thuận lợi hơn rất nhiều.

Đối với nhà đầu tư: Với bất kỳ một nhà đầu tư nào trên thị trường họ luôn mong muốn đồng vốn đầu tư của mình không những được bảo toàn mà còn phải có lãi với từng mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau. Tại cùng một mức rủi ro họ luôn muốn nhận được mức lợi nhuận cao nhất. Do đó, việc định giá doanh nghiệp là một cơ sở quan trọng cho nhà đầu tư ra các quyết định của mình. Nhà đầu tư sẽ trả lời được các câu hỏi : Có nên đầu tư vào doanh nghiệp này hay không? Mức giá là bao nhiêu thì phù hợp? Bên cạnh đó những thông tin nhận được trong quá trình định giá sẽ giúp nhà đầu tư dự đoán được một phần tiềm năng phát triển của công ty trong tương lai.

Đối với các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường: Một trong những cơ sở quan trọng để các tổ chức tài chính trung gian trên thị trường hay các chủ nợ, bạn hàng của doanh nghiệp cho doanh nghiệp vay vốn hoặc hợp tác làm ăn, đầu tư vào doanh nghiệp là: xem xét khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tuơng lai cũng như khả năng phát triển bền vững của doanh nghiệp. Quá trình xác định giá trị doanh nghiệp sẽ cung cấp rất nhiều thông tin về doanh nghiệp. Qua đó họ có thể dễ dàng đưa ra các quyết định trong mối quan hệ với doanh nghiệp.

Đối với nhà nước:

Quá trình phân tích trên cho ta thấy vai trò nổi bật của việc định giá doanh nghiệp là :

Một là: đối với việc chuyển nhượng mua bán, sát nhập thôn tính doanh nghiệp thì hoạt động định giá doanh nghiệp sẽ giúp cho người mua và người bán đưa ra mức giá hợp lý, tạo cơ sở cho việc mua bán một cách công bằng chính xác và nhanh gọn giảm chi phí giao dịch. Quá trình mua bán thường bị kéo dài do mức giá mà hai bên đưa ra thường chênh lệch nhau quá lớn. Việc định giá là cơ sở vững chắc thu hẹp khoảng cách mức giá giữa bên mua và bên bán. Do đó khoảng thời gian đàm phán được rút ngắn, chi phí nhờ đó cũng được rút ngắn.

Hai là: với mục đích cổ phần hoá, tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước. Định giá doanh nghiệp sẽ giúp cho việc xác định được phần vốn của nhà nước trong doanh nghiệp và giá cả hợp lý của cổ phiếu bán ra, đồng thời để xác định xem liệu nhà nước có nên nắm giữ cổ phần của doanh nghiệp nữa hay không và tỷ lệ nắm giữ là bao nhiêu cho phù hợp.

Định giá doanh nghiệp cũng có những yêu cầu và nguyên tắc riêng. Việc thực hiện tốt các nguyên tắc và đảm bảo được các yêu cầu đó sẽ giúp cho hoạt động định giá có hiệu quả hơn.

Nguyên tắc: Định giá doanh nghiệp phải dựa trên giá trị hiện hành của thị trường, phù hợp với cơ chế thị trường và quy luật thị trường. Định giá doanh nghiệp chính là xác định giá trị ước tính của doanh nghiệp theo giá cả thị trường. Vì vậy, cần phải phản ánh đúng thực tế khách quan doanh nghiệp theo sự chấp nhận của thị trường. Nếu không, doanh nghiệp sẽ bị định giá cao hoặc thấp hơn giá trị thực của nó.

Định giá cho từng doanh nghiệp theo từng phương pháp cụ thể cho các doanh nghiệp thuộc các nhóm nghành khác nhau, các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau theo đúng giá hiện hành. Không áp dụng dập khuôn một mô hình, một kiểu định giá cho mọi doanh nghiệp. Bởi vì, mỗi một doanh nghiệp là một hàng hoá đặc biệt của thị trường, nó có sự khác biệt về nguồn lực, về điều kiện cạnh tranh. Các doanh nghiệp xét dưới các góc độ khác nhau, chúng có những yếu tố đặc trưng riêng biệt. Khi xác định giá trị doanh nghiệp cần phải dựa trên những hiểu biết sâu sắc về từng doanh nghiệp từ đó có thể đưa ra các quyết định lựa chọn phương pháp và cách làm cho phù hợp.

Định giá doanh nghiệp phải tuân theo các quy luật kinh tế như quy luật cung cầu, quy luật giá trị. Ngoài ra định giá doanh nghiệp cần phải linh hoạt trong quá trình xác định, phải đặt doanh nghiệp trong tổng thể phát triển chung của toàn thị trường, của nghành nghề mà doanh nghiệp tiến hành kinh doanh. Khi đó định giá doanh nghiệp sẽ phản ánh chính xác hơn triển vọng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai.

Yêu cầu: Định giá doanh nghiệp cũng phải tuân theo các yêu cầu sau:

Tính chuẩn xác: Chuẩn xác vừa là yêu cầu, vừa là mục đích của hoạt động định giá doanh nghiệp. Bởi vậy, tuỳ thuộc vào từng doanh nghiệp mà phải lựa chọn từng phương pháp định giá cho phù hợp. Trong toàn bộ quá trình thực hiện các khâu của hoạt động định giá các vấn đề về kiểm kê tài sản, xử lý tài chính phải thật chuẩn xác và cẩn trọng.

Dễ dàng trong việc tính toán: Định giá doanh nghiệp có thể dựa vào rất nhiều phương pháp khác nhau, song đối với doanh nghiệp là phải chọn được phương pháp định giá sao cho phù hợp với doanh nghiệp vừa đơn giản vừa dễ thực hiện, phù hợp với năng lực của người định giá. Bởi xét cho cùng nếu các công thức sử dụng trong quá trình định giá quá phức tạp sẽ dẫn đến sai lầm và mất đi tính chuẩn xác. Tuy nhiên cũng không nên vì điều này mà làm ẩu. Việc định giá cần phải do những người có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính đảm nhiệm.

Nguyên tắc lựa chọn tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp ở nước ta thực hiện theo quy định tại điều 23 nghị định 187/2004/NĐ-CP.

Doanh nghiệp có giá trị tài sản theo sổ kế toán dưới 30 tỷ đồng doanh nghiệp tự tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp hoặc thuê tổ chức tư vấn định giá để xác định giá trị doanh nghiệp.

Đối với doanh nghiệp có giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên, văn phòng tổng công ty (nếu cổ phần hoá toàn bộ công ty) phải thuê tổ chức định giá xác định giá trị doanh nghiệp.

Thuê tổ chức định giá.

Tổ chức định giá gồm các công ty kiểm toán, công ty chứng khoán, tổ chức thẩm định giá, ngân hàng đầu tư có chức năng và năng lực định giá…

Tổ chức định giá phải đảm bảo các tiêu chuẩn và điều kiện sau:

Có chức năng định giá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư.

Tuỳ theo ngành nghề kinh doanh, phải đảm bảo các điều kiện, tiêu chuẩn của pháp luật hiện hành.

Không cùng chủ sở hữu, không có mối quan hệ kinh tế với doanh nghiệp được định giá như hùn vốn, góp vốn liên doanh, góp vốn cổ phần.

Không trực tiếp thực hiện kiểm toán cho các doanh nghiệp được định giá.

Trong quá trình hoạt động không có vi phạm pháp luật về nghề nghiệp.

Hiện nay ở nước ta có 28 tổ chức được thực hiện định giá doanh nghiệp bao gồm 13 công ty chứng khoán, một công ty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam, 14 công ty kiểm toán.

Hàng năm, trước ngày 31 tháng 12, Bộ tài chính công bố công khai danh sách các tổ chức định giá đủ điều kiện, tiêu chuẩn định giá doanh nghiệp của năm sau.

Chi phí định giá doanh nghiệp thấp: Chi phí định giá doanh nghiệp là một khoản chi của doanh nghiệp thuê tổ chức định giá. Hiện nay ở nước ta nhà nước đã quy định trong nghị định 187 rất rõ như sau:

Không quá 200 triệu đồng với doanh nghiệp có giá trị dưới 30 tỷ đồng.

Không quá 300 triệu đồng đối với doanh nghiệp có giá trị từ 30 tỷ đến 50 tỷ đồng.

Không quá 400 triệu đồng với doanh nghiệp có giá trị trên 50 tỷ đồng.

Cho nên việc định giá doanh nghiệp phải có chi phí sao cho vừa với các khoản chi phí mà doanh nghiệp được phép bỏ ra theo quy định của nhà nước.

Quá trình định giá doanh nghiệp không phải là một công việc đơn giản và dễ làm, vì vậy để đảm bảo được vài trò cũng như ý nghĩa của hoạt động định giá thì khi tiến hành định giá cần phải kết hợp cả ba yêu cầu và nguyên tắc trên một cách tốt nhất. Chỉ có như vậy giá trị doanh nghiệp được xác định mới là giá trị thực của nó.

0