Lương Hữu Khánh
sống vào khoảng thế kỷ 16, là Thượng thư Bộ Binh (có sách chép khác là Thượng thư Bộ Lễ), thời Lê Trung hưng, tước Đạt Quận Công, là nhà thơ, con của Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, người làng Hội Triều, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. ...
sống vào khoảng thế kỷ 16, là Thượng thư Bộ Binh (có sách chép khác là Thượng thư Bộ Lễ), thời Lê Trung hưng, tước Đạt Quận Công, là nhà thơ, con của Bảng nhãn Lương Đắc Bằng, người làng Hội Triều, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
có cha là quan lớn, nhưng thanh liêm nên nhà nghèo, lúc nhỏ ông phải đi cày mướn gặt thuê cho ruộng nhà khác hoặc làm văn bản mướn để có thể sinh sống. Sau này ông theo học Nguyễn Bỉnh Khiêm là học trò cũ của cha mình, và được thầy học biệt đãi như con đẻ cho ở trong nhà. Ông đậu cử nhân năm 12 tuổi, đậu thứ 2 thi hội vì bị thiên vị nên ông bỏ, không thi đình dưới triều Mạc Ðăng Doanh mà trốn vào Thanh Hóa theo phò vua Lê.
Có thuyết khác chép rằng ông đã yêu con gái lớn của Trạng Trình. Do cha của ông qua đời đã lâu, mẹ là vợ thiếp làm nghề buôn bán, sinh ông ở Thăng Long, chưa có ý kiến gì về việc hỏi vợ cho ở nơi khác nên vợ chồng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tùy duyên mà gả con gái cho Phó Vệ úy Hầu tước Phạm Dao. Tiến sĩ đã buồn rầu bỏ thi Đình của nhà Mạc để về quê cũ (Thanh Hóa) khởi nghiệp trung hưng nhà Lê.
là nhân vật trọng yếu của triều đình nhà Lê, có công khôi phục và lập nên nhà Hậu Lê. Ông đã cùng với chúa Trịnh Tùng, vị tiết chế đức độ, có tầm nhìn xa rộng, và Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, nhà quân sư tài danh và ngoại giao lỗi lạc, đã nối được chí hướng của thầy học Nguyễn Bỉnh Khiêm, lấy yêu dân và vận nước làm trọng, để nỗ lực tôn phù vua sáng, thay đổi được cục diện chiến tranh Lê-Mạc kéo dài.
Tính tình cương trực, thanh liêm, ông nối được chí hướng của cha, luôn luôn gìn giữ truyền thống gia phong, tôn trọng đạo đức. Tính tình lại giản dị, an nhiên, nếp sống thanh cao, hào sảng.
Ông sáng tác nay chỉ còn lưu lại một số bài thơ, phú; đáng chú ý là bài thơ "Quan sử", dài 400 câu, bút pháp gân guốc, thể hiện niềm tự hào về lịch sử của dân tộc từ Kinh Dương Vương đến Lê Trung Hưng.
Bài thơ Nôm Cùng qua một chuyến đò dưới đây của ẩn chứa nhiều sâu sắc về xử thế của kẻ sĩ thời loạn:
Sách Nam Hải Dị Nhân của Phan Kế Bính có chép giai thoại về ông :
Gia đình có cha là đại quan, nhưng thanh liêm nên lúc nhỏ nhà túng bấn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Cụ học rất giỏi, nổi tiếng hay chữ từ nhỏ nhưng nghèo quá phải đi cày mướn gặt thuê, hoặc tìm đến trường làm văn bản mướn kiếm tiền độ nhật. Cụ có sức khoẻ mạnh, nên gặt nhanh chóng được nhiều thửa ruộng, rồi nằm ngủ ngay tại chỗ, gối đầu lên bờ ruộng.
Một hôm, cụ qua chuyến đò sông Tam Kỳ, gặp mấy hoà thượng đi đám chay về và mang túi oản. Thấy cụ cứ nhìn, nhà sư biết cụ đói, cho vài phẩm oản, nhưng cụ không nhận vì ít quá, không đủ no. Nhà sư ngạc nhiên, biết cụ là học trò, yêu cầu cụ làm bài thơ Nho tăng đồng chu (học trò, nhà sư cùng thuyền), nếu xong trước khi đến bến, sẽ tặng cả túi oản. Cụ đọc ngay :
Nho tăng đồng chu
Nang trung kinh sử kiệp kim cương Nhĩ ngã kim đồng phiếm nhất hàng Hội si cù đàm khanh khoái lạc Vị long hoàng các ngã xu thương Duy biên nhĩ thượng cừu Hàn Dũ Vãng sự ngộ do hận Thủy Hoàng Nhất ngộ vô đoan này tiễn biệt Nhĩ thành phúc quả ngã vinh xương.
(Nhiều bản chép khác)
Dịch:
Cùng qua một chuyến đò
Một hòm kinh sử, túi kim cương Người tớ cùng sang một chuyến đường Trong hội cồ đàm người thoả thích, Trên ngôi đài các tớ nghênh ngang Chuyện xưa ngươi vẫn căm Hàn Dũ , Việc trước ta còn oán Thủy Hoàng Gặp gỡ một lần rồi tiễn biệt Kẻ tròn quả phúc, kẻ vinh xương.
(Bản dịch