Luật đồng nhất
Mọi tư tưởng phản ánh cùng một đối tượng trong cùng một quan hệ phải được đồng nhất. Sự vật, hiện tượng biến đổi không ngừng, trong quá trình biến đổi đó, khi chất của sự vật chưa thay đổi thì sự vật vẫn còn là nó, đồng nhất với nó. ...
Mọi tư tưởng phản ánh cùng một đối tượng trong cùng một quan hệ phải được đồng nhất.
Sự vật, hiện tượng biến đổi không ngừng, trong quá trình biến đổi đó, khi chất của sự vật chưa thay đổi thì sự vật vẫn còn là nó, đồng nhất với nó. Vì vậy, trong tư duy, trong trao đổi tư tưởng, mọi tư tưởng (khái niệm, phản đoán) phản ánh cùng một đối tượng phải được đồng nhất, phải có giá trị lôgíc như nhau.
được diễn đạt dưới hình thức sau :
A = A, đọc là “A là A”, hoặc “A đồng nhất với A”.
Cũng có thể được diễn đạt :
A → A, đọc là : “Nếu (đã) a thì (cứ) A”.
yêu cầu không được thay đổi nội dung đã được xác định của tư tưởng, không được thay đổi nội hàm và ngoại diên của khái niệm một cách tùy tiện.
không mâu thuẫn với phép biện chứng. Sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển, do đó tư tưởng phán ánh chúng cũng phải vận động và phát triển theo. Vì “biện chứng của ý niệm (tư tưởng) chẳng qua chỉ là sự phản ảnh biện chứng của sự vật”. Cho nên tư tưởng về sự vật có thể và cần được biến đổi khi sự vật biến đổi. Ở đây, luật đồng nhất không ngăn cấm sự biến đổi của tư tưởng, mà chỉ ngăn cấm sự thay đổi một cách tùy tiện, vô căn cứ của tư tưởng trong quá trình tư duy khi sự vật mà tư tưởng đó phản ánh vẫn đang còn là nó.
cũng đặt ra yêu cầu trong trao đổi tư tưởng trong thảo luận : không được đồng nhất hóa những tư tưởng khác biệt. Đồng thời hóa những tư tưởng khác biệt là thủ thuật của những kẻ ngụy biện hòng vi phạm luật đồng nhất, làm cho người khác hiểu sai lạc vấn đề.
Những biểu hiện của việc vi phạm luật đồng nhất ở khía cạnh này là :
- Sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa (đánh tráo khái niệm).
Ví dụ : Vật chất tồn tại vĩnh viễn (1).
Bánh mì là vật chất (2).
Bánh mì tồn tại vĩnh viễn.
Khái niệm “Vật chất” ở hai tiền đề có nội hàm khác nhau, cho nên đây là hai khái niệm khác nhau.
- Đồng nhất hóa các tư tưởng khác nhau (đánh tráo nghĩa của tư tưởng).
Ví dụ : Cái anh không mất tức là cái anh có (1).
Anh không mất sừng (2).
Vậy là anh có sừng.
Ở phán đoán (1), “cái không mất” được hiểu là cái ta có và ta không đánh mất. Nhưng ở phán đoán (2) “cái không mất” lại là cái mà ta không hề có và do đó không thể đánh mất được. Ở đây, người ta đã cố tình đồng nhất hóa hai tư tưởng khác nhau.
còn đặt ra một yêu cầu khác trong trao đổi tư tưởng : không được làm khác biệt hóa một tư tưởng đồng nhất. Khác biệt hóa một tư tưởng đồng nhất cũng là vi phạm luật đồng nhất. Vi phạm luật đồng nhất ở khía cạnh này thường được biểu hiện :
- Trong dịch thuật, chuyển các văn bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác (các bản dịch không còn nguyên ý nghĩa của bản gốc).
- Trong trình bày chuyển đạt văn bản, nghị quyết, các điều luật, các qui định, v.v… người ta cắt xén hoặc thêm vào văn bản những tư tưởng khác với bản gốc.
- Cố tình hoặc vô tình thay đổi luận đề trong quá trình lập luận, chứng minh.
hiểu thị tính chất cơ bản của tư duy lôgíc : tính xác định. Nếu tư duy không có tính xác định thì người ta không hiểu đúng sự thật và không thể hiểu nhau được. loại bỏ tính chất mơ hồ, lẫn lộn, thiếu xác định, nước đôi trong tư duy. Trong cuộc sống, những người vi phạm luật đồng nhất thường là những kẻ ngụy biện, họ cố tình đánh tráo khái niệm, đánh tráo đối tượng để phục vụ cho ý đồ sai trái của mình, hoặc là những người do thiếu hiểu biết, nắm không đầy đủ nội hàm và ngoại diên của các khái niệm, các thuật ngữ, ký hiệu chuyên môn, v.v… Chính vì vậy, trong khoa học, để tránh vi phạm luật đồng nhất, ngành khoa học nào cũng cần phải định nghĩa, chú thích rõ ràng tất cả các khái niệm, các thuật ngữ, các ký hiệu của ngành mình.