Lịch sử châu Âu
Lịch sử Châu Âu mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa Châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài, nhiều biến động và đậm nét văn hóa. thời tiền sử bắt đầu với công cuộc định cư của người vượn đứng ...
Lịch sử Châu Âu mô tả những sự kiện của con người đã diễn ra trên lục địa Châu Âu. Từ thời tiền sử tới thời hiện đại. Châu Âu có một lịch sử dài, nhiều biến động và đậm nét văn hóa.
thời tiền sử bắt đầu với công cuộc định cư của người vượn đứng thẳng, giống Neanderthals, và loài người hiện đại. Lịch sử được ghi lại bắt đầu từ thời kỳ cổ đại cùng với giai đoạn cực thịnh của văn hóa Hy Lạp sau các cuộc chinh phục của Alexander đại đế. Quyền lực sau đó nằm trong tay đế chế La Mã, một đế chế rộng lớn trải dọc từ Thổ Nhĩ Kỳ tới Tây Ban Nha, từ Bắc Phi tới Scotland. Sự bành trướng của đế chế La Mã đặt nền tảng cho sự ra đời của hàng loạt đế chế mà chưa bao giờ được thấy trước đó ở châu Âu. Cho đến khi hoàng đế Marcus Aurelius qua đời, đế chế La Mã, đế chế kéo dài từ năm 27 trước Công Nguyên tới năm 476 Công Nguyên, đã biết đến những đối thủ mới trên thế giới. Nó bị vượt mặt bởi hàng loạt cuộc xâm chiếm dã man và bắt đầu thu hẹp dần, với quyền lực trung tâm được chuyển từ Rome tới Constantinople, với một thời kỳ La Mã được gọi là thời kỳ đen tối, đánh dấu bằng sự tàn tạ trong giáo dục, trong tổ chức xã hội và bởi những sự xâu xé ăn thịt của rất nhiều những người xâm lược, đặc biệt là người Viking, Avar, Hungary và người Ả Rập.
Giai đoạn trung cổ được đánh dấu bằng sự tái thiết xã hội có tổ chức, chủ yếu là các đường lối phong kiến, và sự thống trị ở phương Bắc của giáo hội công giáo La Mã. Ở phương Đông, sự xâm nhập của đạo Hồi làm bùng nổ cuộc Thập tự chinh, và cuối cùng dẫn đến sự đổ vỡ của Đế quốc Byzantine. Thời trung cổ được tiếp nối bởi công cuộc Phục hưng, một sự tái khám phá giá trị và tri thức cổ điển, làm bàn đạp cho phong trào Cải cách Kháng Cách, một phong trào tôn giáo và chính trị đã chứng kiến phần lớn Bắc Âu từ bỏ giáo hội công giáo La Mã đồng thời tái xác định văn hóa cũng như các khối liên minh ở khắp lục địa. Thời kỳ này cũng chính là nền tảng cho sự phát triển của bành trướng thuộc địa, củng cố sức mạnh ở các quốc gia thuộc Đại Tây Dương của Anh Quốc, Pháp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đồng thời mở rộng tầm ảnh hưởng của châu Âu tới châu Mỹ, châu Phi, Ấn Độ và phương Đông. Thời kỳ này là bước ngoặt cho cuộc cách mạng công nghiệp và thời kỳ tri thức được biết đến là khai sáng. Từ thế kỷ 17, rất nhiều các quốc gia ở châu Âu thực hiện hàng loạt những cuộc cách mạng, trong đó nổi bật nhất là cách mạng Pháp, cuộc cách mạng mở đầu cho hàng loạt cuộc chinh phạt của Napoleon.
Việc phá hủy các quốc gia đang tồn tại của Napoleon và sau đó tái tổ chức châu Âu với hội nghị Vienna đã tiếp sức cho chủ nghĩa dân tộc đang phát triển, dẫn đến sự ra đời của đế quốc Áo-Hung sau đó, sự thống nhất của Anh, sự thống nhất của Ý và những căng thẳng tại vùng Balkan, cũng như những cải cách mạnh mẽ trong đế quốc Nga. Rồi Anh và Pháp, phần nào đó là Thổ Nhĩ Kỳ, những quốc gia được biết đến là cường quốc. Các căng thẳng không giải quyết được tại Balkan, và một hệ thống những khối đồng minh được gọi là Đồng minh ba nước (1882) và khối đồng minh ba nước chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đệ nhất thế chiến, bản thân nó cũng mở đường cho cách mạng Nga và chỉ kết thúc với sự tham gia của Hoa Kỳ. Hiệp ước đình chiến đã để lại cho Đức gánh nặng bồi thường thiệt hại, gánh nặng này, kết hợp với Đại suy thoái (Great Depression), đã tạo điều kiện để đảng Phát xít của Adolf Hitler cầm quyền, mở đầu cho sự ra đời của Đệ tam Quốc xã cũng như sự xuất hiên của những đảng Phát Xít tại Tây Ban Nha (xem Nội chiến Tây Ban Nha) và Ý. Cuộc xâm chiếm Ba Lan, Bỉ và Pháp của Hitler là tín hiệu cho sự khởi đầu của Đệ nhị thế chiến.
Chiến thắng của Phe Đồng Minh tại châu Âu và sự đầu hàng của Nhật Bản đã chứng kiến việc quyền lực tại Trung Âu được chia sẻ giữa Liên bang Xô Viết, Anh Quốc, Hoa Kỳ và Pháp. Tuy nhiên, điều này nhanh chóng dẫn đến sự hình thành các khối Đông-Tây trong Chiến tranh lạnh khi mà khối Warszawa do Liên Xô đứng đầu đối mặt với khối NATO do Mỹ cầm đầu và được ngăn cách qua cái gọi là Bức màn sắt, biểu tượng tiêu biểu là Bức tường Berlin. Tây Âu sau đó trải qua giai đoạn phát triển kinh tế ổn định và mạnh mẽ, thành lập ra Cộng đồng Kinh tế châu Âu và sau đó là Liên minh châu Âu. Trong khi đó, khối Warszawa tụt hậu, sau cùng dẫn đến cuộc cải tổ Nga, khối Warszawa tan vỡ và bức tường Berlin sụp đổ. Sau chiến tranh lạnh ở châu Âu thì sự kiện chính nổi lên là cuộc chiến sắc tộc tại Balkan, nổi bật tại Serbia, Bosnia và Kosovo, cùng với sự can thiệp của NATO sau đó. Từ sự kiện 11 tháng 9, chính sách đối ngoại của NATO bị gia tăng sự chi phối do phản ứng của nó với thế giới Hồi giáo, và nổi bật hơn cả là những quan điểm mâu thuận về cuộc chiến ở Iraq, trong khi đó thì liên minh châu Âu cũng kết nạp thêm phần lớn những thành viên của khối Warszawa cũ cũng như các quốc gia vùng Baltic.
Người Homo erectus và Neanderthals đã di cư từ Châu Phi tới Châu Âu sau sự xuất hiện của con người hiện đại, người thông minh. Các xương cốt của những người Châu Âu đầu tiên được tìm thấy tại Dmanisi, Gruzia, có niên đại 1.8 triệu năm trước. Hình thái giải phẫu học hiện đại sớm nhất về con người tại Châu Âu có từ 35,000 năm trước Công Nguyên. Bằng chứng về khu định cư cố định có từ 7,000 năm trước Công Nguyên tại Balkans. Thời kỳ đồ đá mới bắt đầu tại Trung Âu từ 6,000 năm trước Công Nguyên và tại nhiều vùng khác ở Bắc Âu từ 5,000 tới 4,000 năm trước Công Nguyên. Văn hóa Cucuteni-Trypillian 5508-2750 trước Công Nguyên là nền văn minh lớn đầu tiên tại Châu Âu và cũng là một trong những nền văn minh sớm nhất thế giới.
Bắt đầu từ Thời kỳ đồ đá mới đã có nền văn minh Camunni tại Valle Camonica, Italy, với di tích hơn 350,000 hình khắc trên đá, địa điểm lớn nhất tại Châu Âu.
Cũng được gọi là Thời kỳ đồ đồng, Chalcolithic Châu Âu là khoảng thời gian của những sự thay đổi và hỗn loạn. Nguyên nhân trực tiếp nhất là sự thâm nhập và xâm lấn phần lớn các vùng lãnh thổ bởi người từ Trung Á, được đa số các học gia cho là có nguồn gốc Indo-Europeans, tuy vẫn có nhiều lý thuyết tranh cãi khác. Một hiện tượng khác là sự mở rộng của Megalithism và sự xuất hiện của sự phân tầng kinh tế đáng chú ý và, liên quan đến nó, những chế độ quân chủ đầu tiên tại vùng Balkan. Nền văn minh chữ viết nổi tiếng đầu tiên ở Châu Âu là nền văn minh của người Minoans trên đảo Crete và sau này là của người Mycenae trên những vùng liền kề Hy Lạp, bắt đầu từ đầu thiên niên kỷ thứ 2 trước Công Nguyên.
Dù việc sử dụng sắt đã được người Aegea biết tới từ khoảng năm 1100 trước Công Nguyên, mãi tới năm 800 trước Công Nguyên nó mới được biết đến ở Trung Âu, mở đường cho văn hóa Hallstatt, một sự phát triển văn hóa Thời kỳ đồ sắt của Urn Fields. Có lẽ như một tác dụng phụ của sự khác biệt kỹ thuật này của người Indo-European, ngay sau đó, họ rõ đã củng cố vững vị trí tại Italy và Iberia, thâm nhập sâu vào các bán đảo đó (Rome thành lập năm 753 trước Công Nguyên).
Người Hy Lạp và người La Mã đã để lại một di sản tại Châu Âu trong ngôn ngữ, tư tưởng, luật pháp và tâm trí hiện tại. Hy Lạp cổ đại là một tập hợp các thành bang, từ đó hình thái dân chủ đầu tiên phát triển. Athens là thành phố mạnh và phát triển nhất, và một cáu nôi của học thuật từ thời Pericles. Các diễn đàn công dân bàn luận và luật hóa chính sách của nhà nước, và từ đó một số nhà triết học cổ đại nổi tiếng nhất đã xuất hiện, như Socrates, Plato, và Aristotle, Aristotle là thày học của Alexander Đại đế. Là vua của vương quốc Hy Lạp Macedon, các chiến dịch quân sự của Alexander đã đưa văn hóa và trí thức Hy Lạp tới các vùng ven Sông Indus. Nhưng Đế chế La Mã, trở nên hùng mạnh nhờ chiến thắng trước Carthage trong Các cuộc chiến tranh Punic đã nổi lên trong vùng. Sự thông thái Hy Lạp đã được chuyển vào các định chế La Mã, khi chính Athens bị hấp thu vào trong Thượng viện và Nhân dân La Mã (Senatus Populusque Romanus). Người La Mã mở rộng từ Ả Rập tới Britannia. Năm 44 trước Công nguyên họ đạt tới cực điểm, lãnh đạo của họ Julius Caesar bị ám sát khi bị nghi ngờ muốn lật đổ nền Cộng hoà, để trở thành nhà độc tài. Trong cuộc hỗn loạn sau đó, Octavian chiếm quyền cai trị và mua chuộc Thượng viện La Mã. Tuy công bố tái lập nền Cộng hoà, trên thực tế ông đã biến Cộng hòa La Mã thành Đế chế La Mã.
Hy Lạp cổ đại
Nền văn minh Hy Lạp có hình thực một tập hợp các thành bang, hay poleis (các thành bang quan trọng nhất là Athens, Sparta, Thebes, Corinth, và Syracuse), với nhiều kiểu chính phủ và văn hóa khác biệt, gồm những khác biệt chưa từng có trước đó trong nhiều hình thái chính phủ, triết học, khoa học, toán học, chính trị, thể thao, sân khấu và âm nhạc. Athens, thành bang mạnh nhất, tự trị bằng một hình thức dân chủ trực tiếp đầu tiên do giới quý tộc Cleisthenes Athens lập ra. Ở nền dân chủ Athens, chính các công dân tự bỏ phiếu đề ra pháp luật và thực thi chúng. Socrates là người của thành bang này, ông được coi là một trong những người sáng lập triết học phương Tây. Socrates cũng tạo ra Phương pháp Socrates, hay elenchus, một kiểu khoa giáo dục được dùng ngày nay trong việc giảng dạy triết học, theo đó một loạt câu hỏi được đặt ra không chỉ để thu thập những câu trả lời của cá nhân, mà để khuyến khích cái nhìn sâu nền tảng vào trong vấn đề cần giải quyết. Vì triết học này, Socrates bị đem ra xét xử và kết tội tử hình vì "ăn cướp tuổi trẻ" của Athens, bởi những bài tranh luận của ông xung đột với các đức tin tôn giáo đã được thiết lập ở thời điểm đó. Plato, một học sinh của Socrates và là người thành lập Platonic Academy, đã ghi lại thời kỳ này trong các tác phẩm của mình, và bắt đầu phát triển triết học duy nhất của riêng ông, Chủ nghĩa Plato.
Điện Parthenon, một Đền thờ Athens cổ đại tại Acropolis (đỉnh đồi thành phố) rơi vào tay La Mã năm 176 trước Công nguyên
Các thành bang Hy Lạp đã thành lập một lượng lớn thuộc địa trên các bờ Biển Đen và Địa Trung Hải, Tiểu Á, Sicily và phía Nam Italy tại Magna Graecia, nhưng vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, cuộc mở rộng về phía tây của họ đã dẫn tới sự trả đũa từ Đế chế Achaemenid Ba Tư. Trong Những cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư, các thành bang Hy Lạp đã lập một liên minh và đánh bại Đế chế Ba Tư tại Trận Plataea, đẩy lùi những cuộc xâm lược của Ba Tư. Người Hy Lạp lập ra Liên minh Delian để tiếp tục chiến đấu với người Ba Tư, nhưng vị thế lãnh đạo của Athens trong liên minh đã khiến Sparta thành lập Liên minh Peloponnesian đối trọng. Hai liên minh bắt đầu cuộc Chiến tranh Peloponnesian giành quyền lãnh đạo Hy Lạp, cuối cùng Liên minh Peloponnesian giành thắng lợi. Không bằng lòng với sự bá chủ của Sparta sau đó cuộc Chiến tranh Corinthian đã nổ ra và Liên minh do Thebes đứng đầu đánh bại Sparta tại Trận Leuctra. Những cuộc đánh nhau trong nội bộ khiến các thành bang Hy Lạp trở thành con mồi dễ dàng cho vua Philip II của Macedon, ông thống nhất tất cả các thành bang Hy Lạp. Các chiến dịch của con trai ông Alexander Đại đế đã đưa văn hóa Hy Lạp tới Ba Tư, Ai Cập và Ấn Độ, nhưng cũng đưa lại sự tiếp xúc với tri thức cổ của các quốc gia đó, mở ra một thời kỳ phát triển mới, được gọi là Hellenism. Alexander mất năm 323 trước Công Nguyên, phân chia đế chế của ông thành nhiều nền văn minh Hellenistic.
Sự trỗi dậy của La Mã
Đa số tri thức Hy Lạp đã được nhà nước La Mã mới xuất hiện hấp thu khi nó mở rộng ra khỏi Italia, lợi dụng ưu thế khi kẻ thù không thể thống nhất: nguy cơ duy nhất cho sự trỗi dậy của La Mã là từ thuộc địa Phoenicia của Carthage, và sự thất bại của nó ở thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên đánh dấu sự khởi đầu của quyền bá chủ La Mã. Ban đầu La Mã thuộc sự cai quản của các vị vua, sau đó là một nền cộng hòa nghị viện (Cộng hòa La Mã), cuối cùng vào cuối thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên La Mã trở thành một đế chế, dưới sự cai trị của Augustus và những người kế tục độc tài của ông ta. Đế chế La Mã có trung tâm tại Biển Địa Trung Hải, kiểm soát toàn bộ các nước trên bờ biển này; biên giới phía bắc là các con sông Rhine và Danube. Dưới thời hoàng đế Trajan (thế kỷ thứ 2 Công Nguyên) đế chế ở thời điểm rộng lớn nhất, kiểm soát khoảng 5,900,000 km² (2,300,000 dặm vuông) đất đai, gồm Anh, Romania và nhiều vùng của Mesopotamia. Đế chế mang lại hòa bình, nền văn minh và một chính phủ trung ương hiệu quả cho các vùng đất phụ thuộc, nhưng vào thế kỷ thứ 3 một loạt các cuộc nội chiến đã làm suy mòn sức mạnh kinh tế và xã hội của nó. Trong thế kỷ thứ 4, các hoàng đế Diocletian và Constantine đã làm giảm quá trình suy tàn bằng cách phân chia đế chế thành một vùng phía Tây và một vùng phía Đông. Trong khi Diocletian ngược đãi Thiên chúa giáo, Constantine tuyên bố sự chính thức chấm dứt của sự ngược đãi tín đồ Thiên chúa giáo do nhà nước bảo trợ vào năm 313 với Sắc lệnh Milan, vì thế lập ra cơ sở để đế chế sau này trở thành nhà nước Thiên chúa giáo chính thức vào khoảng năm 380 (sẽ khiến Nhà thờ trở thành một định chế quan trọng).
Hậu Cổ đại và Thời kỳ Di cư
chúa giáo tại Đế chế La Mã. Ngoài ra, Constantine chuyển thủ đô của Đế chế La Mã từ Roma tới thị trấn Byzantium Hy Lạp, được ông đổi tên thành Constantinople ("Thành phố Constantine"). Năm 395 Theodosius I, người đã biến Thiên chúa giáo thành tôn giáo chính thức của Đế chế La Mã, sẽ trở thành vị hoàng đế cuối cùng chỉ huy một Đế chế La Mã thống nhất, và từ đó, đế chế sẽ bị chia thành hai vùng: Đế chế Tây La Mã với trung tâm ở Ravenna, và Đế chế Đông La Mã (sau này sẽ được gọi là Đế chế Byzantine) với trung tâm tại Constantinople. Đế chế Tây La Mã bị các bộ lạc Germanic cướp bóc tấn công liên tục (xem: Thời kỳ Di cư), và cuối cùng vào năm 476 rơi vào tay Heruli thủ lĩnh Odoacer. Quyền lực của La Mã ở phía tây hoàn toàn sụp đổ và các tỉnh phía tây nhanh chóng trở thành một miếng chắp vá của các vương quốc Germanic. Tuy nhiên, thành phố Rome, dưới sự hướng dẫn của Nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã, vẫn là một trung tâm của học thuật, và đã làm rất nhiều để gìn giữ tư tưởng La Mã cổ đại ở Tây Âu. Cùng thời gian ấy, hoàng đế La Mã tại Constantinople, Justinian I, đã thành công trong việc hệ thống hóa toàn bộ luật La Mã vào trong Corpus Juris Civilis (529-534). Trong thế kỷ thứ 6, Đế chế Đông La Mã đã bị lôi kéo vào một loạt cuộc xung đột nguy hiểm, đầu tiên với Đế chế Sassanid của người Ba Tư (xem Các cuộc chiến tranh La Mã-Ba Tư), sau đó là sự tấn công của đế quốc Hồi giáo (dưới các triều đại Rashidun và Umayyad) đang phát triển. Tới năm 650, các tỉnh của Ai Cập, Palestine và Syria đã bị chiếm bởi các lực lượng Hồi giáo, tiếp đó bởi Hispania và phía nam Italia ở thế kỷ thứ 7 và thứ 8 (xem Các cuộc chinh phục Hồi giáo).
Ở Tây Âu, một cơ cấu chính trị xuất hiện: trong khoảng trống quyền lực sau khi La Mã sụp đổ, các tổ chức tôn giáo địa phương dựa trên sự liên kết của người dân với đất đai của họ. Thuế thập phân được trả cho chúa đất, và chúa đất có trách nhiệm trước vị hoàng thân của vùng. Thuế thập phân được sử dụng để trả cho nhà nước và các cuộc chiến tranh. Đó chính là hệ thống phong kiến, trong đó các hoàng thân và nhà vua mới xuất hiện, người mạnh nhất trong số họ là Charlemagne của người Frank. Năm 800, Charlemagne, trở nên hùng mạnh bởi các cuộc chinh phục lãnh thổ rộng lớn của mình, được phong làm Hoàng đế La Mã (Imperator Romanorum) bởi Giáo hoàng Leo III, củng cố vững chắc quyền lực của ông tại Tây Âu. Sự cai trị của Charlemagne đánh dấu sự khởi đầu của một Đế chế La Mã Germanic mới ở phía Tây, Đế quốc La Mã Thần thánh. Bên ngoài các biên giới của ông, các lực lượng khác đang tập hợp. Kievan Rus' đang vạch rõ lãnh thổ của họ, một Đại Moravia đang phát triển, trong khi người Angles và Saxons đang phòng giữ các biên giới của họ.
Sự suy tàn của Đế chế La Mã
Đế chế La Mã đã nhiều lần bị các đội quân xâm lược từ Bắc Âu tấn công và cuối cùng vào năm 476, Rome sụp đổ. Romulus Augustus, vị Hoàng đế cuối cùng của Đế chế Tây La Mã đầu hàng vua Germanic Odoacer. Nhà sử học Anh Edward Gibbon viết trong cuốn Sự suy tàn và Sụp đổ của Đế chế La Mã (1776) của ông rằng người La Mã đã trở nên suy đồi, họ đã đánh mất đạo đức dân sự. Gibbon nói rằng sự chấp nhận Thiên chúa giáo, có nghĩa là đức tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi chết, và vì đó khiến con người trở nên lười biếng và tránh xa hiện thực. Glen W. Bowersock đã viết "Từ thế kỷ mười tám trở về sau", "chúng ta đã ám ảnh với sự sụp đổ: nó đã được đánh giá như một nguyên mẫu cho mọi sự suy tàn có nhận thức, và, vì thế, như một biểu tượng cho những nỗi sợ hãi của riêng chúng ta." Nó vẫn còn là một trong những vấn đề lịch sử lớn nhất, và rất đáng chú ý với giới học giả.
Một số thời điểm đáng chú ý khác là Trận Adrianople năm 378, cái chết của Theodosius I năm 395 (lần cuối cùng Đế chế La Mã còn thống nhất về chính trị), cuộc vượt sông Rhine năm 406 của các bộ lạc Germanic sau sự rút lui của các quân đoàn La Mã để bảo vệ Italia chống lại Alaric I, cái chết của Stilicho năm 408, tiếp theo là sự tan rã của các quân đoàn phía tây, cái chết của Justinian I, Hoàng đế La Mã cuối cùng tìm cách tái chinh phục phương Tây, năm 565, và sự xuất hiện của Hồi giáo sau năm 632. Nhiều học giả cho rằng còn hơn cả một sự "sụp đổ", những thay đổi có thể được miêu tả chính xác hơn như một sự chuyển tiếp phức tạp. Cùng với thời gian nhiều lý thuyết đã được đề ra về nguyên nhân Đế chế sụp đổ.
Thời Trung Cổ thường được cho là bắt đầu từ sự sụp đổ của Đế chế Đông La Mã (hay bởi một số học giả, trước đó) ở thế kỷ thứ 5 tới sự khởi đầu của Thời kỳ tiền hiện đại ở thế kỷ 16, đánh dấu sự trỗi dậy của các quốc gia, sự phân chia của phương Tây Thiên chúa giáo trong Cải cách, sự nổi lên của chủ nghĩa nhân đạo trong thời Phục hưng Italia, và những sự khởi đầu mở rộng vượt biển dẫn tới Columbian Exchange
Thời Trung Cổ chứng kiến cuộc đô thị hoá bền vững đầu tiên ở bắc và tây Âu. Nhiều nhà nước Châu Âu hiện đại có nguồn gốc từ các sự kiện xảy ra trong thời Trung Cổ; các biên giới chính trị Châu Âu hiện đại, ở nhiều khía cạnh, là kết quả của các thành tựu quân sự và triều đại trong giai đoạn hỗn loạn này.
Giai đoạn đầu Trung Cổ
Giai đoạn đầu Trung Cổ trải dài khoảng năm thế kỷ từ năm 500 tới năm 1000.[5] Trong giai đoạn này, đa phần Châu Âu đã theo Thiên chúa giáo, và "Những thời kỳ Đen tối" tiếp sau sự sụp đổ của Rome diễn ra. Sự thành lập Đế chế Frankish ở thế kỷ thứ 9 dẫn tới sự nổi lên của Phục hưng Carolingian trên lục địa. Châu Âu vẫn là một vùng lạc hậu so với sự trỗi dậy của Thế giới Hồi giáo, với mạng lưới thương mại vượt sa mạc rộng lớn của nó, hay Ấn Độ với Thời kỳ Vàng son thời Đế chế Gupta và người Pratiharas hay China, ở thời ấy là đế chế đông dân nhất thế giới thời kỳ Nhà Tống. Tới năm 1000 Công Nguyên, Constantinople có dân số khoảng 300,000 người, nhưng Rome chỉ có 35,000 và Paris 20,000. Đạo Hồi đã có hơn mười thành phố lớn trải dài từ Córdoba, Tây Ban Nha, ở thời ấy là thành phố lớn nhất thế giới với 450,000 dân, to tới Trung Á.
Một đốm sáng Byzantine
Nhiều người coi Hoàng đế Constantine I (trị vì 306–337) là "Hoàng đế Byzantine" đầu tiên. Chính ông đã dời thủ đô của đế quốc năm 324 từ Nicomedia tới Byzantium, được xây dựng lại như Constantinople, hay Nova Roma ("Rome Mới"). Chính thành phố Rome không phải là thủ đô từ thời cai trị của Diocletian. Một số người xác định sự khởi đầu của Đế chế là sự cai trị của Theodosius I (379–395) và sự thay thế chính thức của Thiên Chúa giáo cho tôn giáo ngoại giáo La Mã, hay sau khi ông chết năm 395, khi sự phân chia chính trị giữa Đông và Tây trở nên rõ ràng. Những người khác cho nó xảy ra muộn hơn năm 476, khi Romulus Augustulus, trong truyền thống được coi là vị Hoàng đế phương tây cuối cùng, bị hạ bệ, vì thế để lại chính quyền đế quốc duy nhất với hoàng đế ở Đông Ai Cập. Những người khác chỉ ra sự tái lập đế chế thời Heraclius (khoảng năm 620) khi các tên hiệu La tinh và việc sử dụng nó được chính thức thay thế bằng tiếng Hy Lạp. Trong bất kỳ trường hợp nào, sự Hy Lạp hóa và sự Thiên chúa giáo hoá đã trên đường phát triển. Đế chế nói chung được coi như đã chấm dứt sau sự sụp đổ của Constantinople trước Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ năm 1453. Plague Justinian là một bệnh dịch ảnh hưởng tới Đế chế Byzantine, gồm cả thành phố thủ đô Constantinople, trong những năm 541–542. Ước tính Plague of Justinian đã giết khoảng 100 triệu người trên khắp thế giới. Nó khiến dân số Châu Âu giảm khoảng 50% trong giai đoạn 541 và 700. Có thể nó cũng góp phần vào thắng lợi của những cuộc chinh phục Ả Rập
Phong kiến Thiên chúa giáo
Đế quốc La Mã Thần thánh xuất hiện khoảng năm 800, khi Charlemagne, vua của người Frank, được Giáo hoàng phong làm Hoàng đế. Đế chế của ông dựa trên Pháp, Các quốc gia vùng thấp và Đức hiện đại trải dài tới Hungary, Italia, Bohemia, Hạ Saxony và Tây Ban Nha. Ông và cha mình nhận được sự giúp đỡ liên tục từ một liên minh với Giáo hoàng, người muốn giúp ông chống lại người Lombard. Giáo hoàng phụ thuộc chính thức vào Đế chế Byzantine, nhưng Hoàng đế Byzantine không làm gì (khi có thể) để chống lại người Lombard.
Ở phía đông Bulgaria được thành lập năm 681 và trở thành quốc gia Slavơ đầu tiên. Đế chế Bulgaria hùng mạnh là đối thủ chính của Byzantine trong việc kiểm soát vùng Balkan trong nhiều thế kỷ và từ thế kỷ thứ 9 trở thành trung tâm của Châu Âu Slavơ. Hai nhà nước, Đại Moravia và Kievan Rus', xuất hiện ở phía Tây và Đông Slav ở thế kỷ thứ 9. Trong thế kỷ thứ 9 và thứ 10, bắc và tây Âu nằm dưới quyền của giới quý tộc và ảnh hưởng của người Viking, tiến hành cướp phá, buôn bán, chinh phục và định cư nhanh chóng và hiệu quả với những con tàu biển của họ. Cuộc Hungary tàn phá lục địa Châu Âu, người Pecheneg cướp bóc phía tây và người Ả Rập ở phía nam Châu Âu. Trong thế kỷ thứ 10 các vương quốc độc lập được thành lập ở Trung Âu, ví dụ, Ba Lan và Vương quốc Hungary. Người Hungary đã dừng các chiến dịch tàn phá của mình; các quốc gia đáng chú ý còn có Croatia và Serbia ở Balkan. Giai đoạn sau đó, chấm dứt khoảng năm 1000, chứng kiến sự phát triển thêm nữa của chế độ phong kiến, làm suy yếu Đế quốc La Mã Thần thánh.
Giai đoạn giữa Trung Cổ
Giấc ngủ sâu của Thời kỳ đen tối bị tác động bởi cuộc khủng hoảng mới trong Nhà thờ. Năm 1054, một cuộc ly giáo không thể hòa giải giữa hai vị trí còn lại của Thiên chúa giáo trong Rome và Constantinople.
Thời kỳ trung Trung cổ ở thế kỷ 11, 12 và 13 cho thấy thể hiện một sự gia tăng dân số nhanh chóng tại Châu Âu, đưa lại sự thay đổi chính trị và xã hội to lớn so với thời kỳ trước. Tới năm 1250, dân số tăng mạnh đã thúc đẩy nền kinh tế, đạt đến những mức độ không thể đạt được mãi tới thế kỷ 19. Từ khoảng năm 1000 trở về sau, Tây Âu chứng kiến cuộc xâm lược cuối cùng của những người dã man và trở nên được tổ chức tốt hơn về chính trị. Người Viking đã định cư trên Đảo Anh, Pháp và những nơi khác, trong khi các vương quốc Thiên chúa giáo Na Uy đang phát triển trên vùng đất Scandinavia của họ. Người Magyars đã dừng mở rộng ở thế kỷ thứ 10, và tới năm 1000, một Vương quốc Hungary Thiên chúa giáo đã được công nhận ở Trung Âu. Với một ngoại lệ ngắn với các cuộc xâm lược Mông Cổ, các cuộc cướp phá lớn của người dã man chấm dứt.
Trong thế kỷ 11, dân số bắc dãy Alps bắt đầu chiếm các vùng đất mới, một số họ đã quay trở lại tình trạng dã man sau sự kết thúc của Đế chế La Mã. Trong cái ngày nay gọi là "cuộc phát quang vĩ đại," những cánh rừng và đầm lầy lớn ở Châu Âu bị triệt hạ để trồng cấy. Cùng lúc ấy các khu định cư đã di chuyển từ các biên giới truyền thống của Đế chế Frankish tới các biên giới mới ở đông Âu, vượt qua Sông Elbe, mở rộng gấp ba lần diện tích nước Đức trong quá trình đó. Các chiến binh thập tự chinh đã thành lập các thuộc địa Châu Âu tại Miền cận đông, đa số Bán đảo Iberian đã bị chinh phục từ khi người Moors, và người Normans thực dân hóa miền nam Italia, toàn bộ các thành phần dân số chính gia tăng và mô hình tái định cư.
Thời kỳ trung Trung Cổ tạo ra nhiều hình thức trí tuệ, tinh thần và tác phẩm nghệ thuật khác nhau. Thời kỳ này chứng kiến sự trỗi dậy của các thành bang quốc gia hiện đại ở Tây Âu và sự đi lên của các đại thành bang Italia. Nhà thờ La Mã vẫn còn hùng mạnh kêu gọi các quân đội trên khắp Châu Âu tham gia vào một loạt cuộc Thập tự chinh chống lại Seljuk Turks, những người đã chiếm Đất thành. Sự tái phát hiện các tác phẩm của Aristotle khiến Thomas Aquinas và các nhà tư tưởng khác phát triển Triết học kinh viện. Trong kiến trúc, đa số các thánh đường Gothic được xây dựng hay hoàn thành trong giai đoạn này.
Một nhà thờ chia rẽ
Sự phân ly Vĩ đại giữa các Nhà thờ thiên chúa giáo phía Đông và phía Tây xảy ra năm 1054 bới Giáo hoàng Leo IX đòi quyền lợi với ba ghế trong Pentarchy, tại Antioch, Jerusalem và Alexandria. Từ giữa thế kỷ thứ 8, các biên giới của Đế chế Byzantine đã bị đẩy lùi sau các cuộc mở rộng của Hồi giáo. Antioch trở lại thuộc sự quản lý của Byzantine năm 1045, nhưng sự hồi sinh quyền lực của các vị vua thừ kế La Mã ở phía Tây cũng lên tiếng đòi quyền lợi và trách nhiệm cho những ghế đã mất ở Châu Á và Châu Phi. Giáo hoàng Leo còn gây ra một cuộc tranh cãi thêm nữa khi bảo vệ filioque clause trong Nicene Creed mà phương Tây đã thông qua theo lẽ thường. Nhờ thờ chính thống phương đông ngày nay nói rằng Quy tắc số 28 của Hội đồng các đại diện Cơ đốc giáo lần thứ tư đã tuyên bố dứt khoát về sự bình đẳng của các giáo sĩ của Rome và Constantinople. Nhà thờ Chính thống cũng nói rằng giáo sĩ Rome chỉ có quyền với giáo khu của mình và không có quyền bên ngoài nó. Tuy nhiên cũng có những xúc tác khác kém quan trọng hơn dẫn tới sự phân ly, gồm sự mâu thuẫn về nghi thức tế lễ. Sự phân ly của Nhà thờ La Mã và Nhà thờ phía Đông dẫn tới nhiều thế kỷ ghẻ lạnh giữa thế giới La tinh và thế giới Hy Lạp.
Những thay đổi nữa cũng diễn ra với một sự tái phân chia quyền lực ở Châu Âu. William Nhà chinh phục, một Quận công Normandy xâm lược Anh năm 1066. Cuộc Chinh phục Norman là một sự kiện chủ chốt trong Lịch sử Anh vì nhiều nguyên do. Sự kiện này làm nước Anh liên kết chặt chẽ hơn với lục địa Châu Âu qua sự áp dụng kiểu chế độ quý tộc Norman, vì thế làm giảm ảnh hưởng từ Scandinavia. Nó tạo ra một trong những vương triều mạnh nhất ở Châu Âu và mang lại một hệ thống chính phủ tinh vi nhất. Hơn nữa, là một hòn đảo, nước Anh có điều kiện phát triển một lực lượng hải quân và các quan hệ thương mại mạnh sẽ là cơ sở để thiết lập một vùng ảnh hưởng lớn trên thế giới gồm Ấn Độ, Australia, New Zealand, Canada và nhiều điểm hàng hải chiến lược khác như Bermuda, Suez, Hong Kong và đặc biệt Gibraltar. Các lợi thế chiến lược này lớn mạnh và mang tính quyết định tới tận sau Thế chiến II.
Các cuộc chiến tranh tôn giáo
Sau cuộc phân ly Đông-Tây, Thiên chúa giáo phía tây được các vương quốc mới thành lập ở Trung Âu: Ba Lan, Hungary và Bohemia chấp nhận. Nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã đã phát triển như một quyền lực lớn, dẫn tới những cuộc xung đột giữa Giáo hoàng và Hoàng đế. Năm 1129 Nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã thành lập một Toà án dị giáo để kiểm soát Cơ đốc giáo La Mã Châu Âu phía tây bằng vũ lực. Toà án dị giáo kết tội những người thực hiện nghi thức dị giáo để giúp họ ăn năn. Nếu không thể làm như vậy, hình phạt sẽ là tử hình. Trong thời gian này nhiều Lãnh chúa và Quý tộc điều khiển nhà thờ. Các thầy tu của Cluny đã rất cố gắng để thiết lập một nhà thờ nơi các Lãnh chúa hay Quý tộc không có quyền can thiệp. Họ đã thành công. Giáo hoàng Gregory VII tiếp tục công việc của các thầy tu với hai mục đích chính, đưa nhà thờ khỏi tầm kiểm soát của các vị vua và quý tộc và tăng cường quyền lực của giáo hoàng. Vùng ảnh hưởng của Nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã đã mở rộng rất nhiều khi các vị vua ngoại giáo cải đạo (Scandinavia, Lithuania, Ba Lan, Hungary), Christian reconquista of Al-Andalus, và các cuộc Thập tự chinh. Ở thế kỷ 15 hầu hết Châu Âu đều theo Cơ đốc giáo La Mã.
Những dấu hiệu đầu tiên về sự tái xuất hiện của văn minh tại Tây Âu bắt đầu xuất hiện ở thế kỷ 11 khi thương mại hoạt động trở lại ở Italia, dẫn tới tăng trưởng kinh tế và văn hóa của các thành bang độc lập như Venice và Florence; cùng thời điểm ấy, các thành bang bắt đầu hình thành ở các nơi như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha, dù quá trình hình thành của chúng (thường bị đánh dấu bởi sự đối đầu giữa các chế độ quân chủ, các lãnh chúa quý tộc phong kiến và nhà thờ) thực tế mất nhiều thế kỷ. Các thành bang mới bắt đầu sử dụng ngôn ngữ viết riêng của mình, thay vì tiếng La tinh truyền thống. Các nhân vật đáng chú ý của phong trào này gồm Dante Alighieri và Christine de Pisan (tên khi sinh Christina da Pizzano), Dante sáng tác bằng tiếng Italia, còn Christine de Pisan dù là một người Italia (Venice) ông định cư ở Pháp và viết bằng tiếng Pháp.(Xem Reconquista về hai quốc gia này.) Mặt khác, Đế chế La Mã Thần thánh, chủ yếu tại Đức và Italia, tiếp tục bị tan rã thành vô số nhà nước phong kiến hay thành bang nhỏ, và sự thần phục của họ với hoàng đế chỉ mang tính danh nghĩa.
Thế kỷ 13 và 14, khi Đế chế Mông Cổ nổi lên, thường được gọi là Thời đại của người Mông Cổ. Quân đội Mông Cổ tiến về phía tây dưới sự chỉ huy của Batu Khan. Các cuộc chinh phục phía tây của họ đã vượt qua hầu như toàn bộ Nga (ngoại trừ Novgorod, đã trở thành một chư hầu), các vùng đất Kipchak, Hungary, và Ba Lan (vẫn còn là một quốc gia có chủ quyền). Lịch sử Mông Cổ ghi rằng Batu Khan đã dự định chinh phục nốt các nước lớn ở Châu Âu, bắt đầu bằng cuộc tấn công mùa đông vào Áo, Italia và Đức, khi ông bị gọi quay trở về Mongolia sau cái chết của Đại Khan Ögedei. Đa số các nhà sử học tin rằng cái chết của ông đã ngăn chặn được cuộc chinh phục toàn bộ Châu Âu[cần dẫn nguồn]. Ở Nga, người Mông Cổ của Golden Horde cai trị trong 250 năm.
Giai đoạn cuối Trung Cổ
Thời kỳ cuối Thời kỳ Trung Cổ kéo dài trong thế kỷ 14 và 15. Khoảng năm 1300, những thế kỷ thịnh vượng và phát triển của Châu Âu tạm ngừng. Một loạt nạn đói và bệnh dịch, như Nạn đói Lớn 1315–1317 và Tử thần Đen, theo một số ước tính đã làm giảm một nửa dân số. Cùng với nạn giảm dân số là sự bất ổn xã hội và chiến tranh địa phương. Pháp và Anh đều phải đối đầu với những cuộc nổi dậy nông dân nghiêm trọng: Jacquerie, Nổi dậy Nông dân, và cuộc Chiến tranh một trăm năm. Càng làm gia tăng các vấn đề của giai đoạn này, sự thống nhất của Công giáoNhà thờ Cơ đốc giáo bị ảnh hưởng bởi cuộc Đại phân ly. Những sự kiện này thỉnh thoảng được gọi là Khủng hoảng Thời kỳ cuối Thời kỳ Trung Cổ.
Dù có những khủng hoảng đó, thế kỷ 14 cũng là thời gian tiến bộ nhảy vọt trong khoa học và nghệ thuật. Một sự quan tâm mới tới các văn bản Hy Lạp và La Mã dẫn tới cái sau này sẽ được gọi bằng thuật ngữ Phục hưng Italia. Tới cuối thời kỳ, một thời đại khám phá bắt đầu. Sự phát triển của Đế chế Ottoman, lên tới đỉnh điểm ở sự sụp đổ của Constantinople năm 1453, cắt đứt các đường thương mại với phương đông. Người Châu Âu buộc phải tìm kiếm các con đường thương mại mới, như trường hợp chuyến đi của Columbus tới Châu Mỹ năm 1492, và chuyên đi vòng quanh Ấn Độ và Châu Phi của Vasco da Gama năm 1498.
Một trong những thảm họa lớn nhất tác động đến Châu Âu là Tử thần Đen. Có nhiều vụ bùng phát, nhưng vụ nghiêm trọng nhất xảy ra giữa những năm 1300 và ước tính đã giết hại một phần ba dân số Châu Âu.
Bắt đầu từ thế kỷ 14, Biển Baltic trở thành một trong những con đường thương mại quan trọng nhất. Liên minh Hanseatic, một liên minh của các thành phố thương mại, được khuyến khích với sự sáp nhập của các vùng rộng lớn của Ba Lan, Lithuania và các quốc gia vùng Baltic khác vào nền kinh tế Châu Âu. Điều này giúp làm phát triển các quốc gia hùng mạnh ở Đông Âu gồm Lithuania, Ba Lan, Hungary, Bohemia, và Muscovy. Sự chấm dứt quy ước của Thời kỳ Trung Cổ thường được gắn liền với sự sụp đổ của thành phố Constantinople và của Đế chế Byzantine trước quân Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman năm 1453. Người Thổ biến thành phố này thành thủ đô của Đế chế Ottoman của họ. Đế chế Ottoman tồn tại đến tận năm 1922 và cũng bao gồm Ai Cập, Syria và hầu hết vùng Balkans. Các cuộc chiến tranh Ottoman ở Châu Âu, thỉnh thoảng cũng được gọi là các cuộc chiến tranh Thổ Nhĩ Kỳ, đánh dấu một phần quan trọng trong lịch sử đông nam Châu Âu.
- Liên đoàn Hanseatic, Marco Polo, Lex Mercatoria, Lịch sử thương mại
- Sự phân ly phía Tây (1378-1417)
- Chiến tranh một trăm năm, Joan of Arc
Thời kỳ tiền hiện đại trải dài nhiều thế kỷ giữa Thời kỳ Trung Cổ và cuộc Cách mạng công nghiệp, khoảng từ năm 1500 đến năm 1800, hay từ sự phát hiện Thế giới mới năm 1492 tới cuộc Cách mạng Pháp năm 1789. Thời kỳ này có đặc điểm ở sự nổi lên quan trọng của khoa học và sự phát triển ngày càng nhanh của kỹ thuật, chính trị dân sự thế tục và quốc gia. Các nền kinh tế tư bản bắt đầu phát triển, bắt đầu từ các nước cộng hòa miền bắc Italia như Genoa. Thời kỳ tiền hiện đại cũng chứng kiến sự nổi lên thống trị của lý thuyết kinh tế trọng thương. Như vậy, thời kỳ tiền hiện đại thể hiện sự suy tàn và biến mất, ở hầu hết Châu Âu, của chủ nghĩa phong kiến, chế độ nông nô và quyền lực của Nhà thờ Cơ đốc giáo. Giai đoạn này còn bao gồm cuộc Cải cách Tin lành, cuộc Chiến tranh ba mươi năm tàn khốc, cuộc thực dân hóa Châu Mỹ của Châu Âu và những cuộc săn lùng phù thủy Châu Âu.
Phục hưng
Phục hưng là một phong trào văn hóa ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống trí thức Châu Âu ở đầu thời kỳ hiện đại. Bắt đầu ở Italia, và lan ra phía bắc và phía tây trong một cuộc mở rộng văn hóa chậm chạp khoảng hai thế kỷ rưỡi, nó gây ảnh hưởng trên văn học, triết học, nghệ thuật, chính trị, khoa học, lịch sử, tôn giáo, và các mặt khác của đời sống trí tuệ.
Petrarch người Italia (Francesco di Petracco), dường như là nhà nhân loại học hoàn toàn đầu tiên, đã viết hồi những năm 1330: "Tôi hiện đang sống, tuy thế tốt hơn là tôi được sinh ra ở một thời điểm khác." Ông rất say mê Hy Lạp và La Mã cổ đại. Ở thế kỷ 15 và 16 niềm mê say với những điểu cổ đại được tăng cường thêm bởi cảm giác nền văn hóa được thừa hưởng đang tan vỡ và thời điểm ấy chỉ là một kho chứa những ý tưởng và cách hành xử để tái xây dựng lại. Matteo Palmieri đã viết những năm 1430: "Hiện giờ quả thực mọi ý tưởng tinh thần phải tạ ơn chúa rằng chúng đã được cho phép được sinh ra trong một thời đại mới." Sự phục hưng ra đời: một thời đại mới khi học tập trở thành rất quan trọng.
Phục hưng bắt nguồn từ sự phát triển trong nghiên cứu các văn bản Latinh và Hy Lạp cổ và sự ngưỡng một thời kỳ Hy Lạp-La Mã coi đó là thời kỳ vàng son. Điều này khiến nhiều nghệ sĩ và tác gia bắt đầu đưa các khuôn mẫu thời La Mã và Hy Lạp vào trong tác phẩm của họ, nhưng cũng có nhiều sáng tạo trong giai đoạn này, đặc biệt là những nghệ sĩ đa tài như Leonardo da Vinci. Nhiều văn bản La Mã và Hy Lạp đã tồn tại từ Thời Trung Cổ Châu Âu. Các thầy tu đã sao chép và tái sao chép các văn bản cũ và giữ chúng trong hàng nghìn năm, nhưng họ đối xử với chúng một cách khác. Nhiều văn bản khác nữa đi tới với làn sóng di cư của các học giả Hy Lạp tới Italia sau Sự sụp đổ của Constantinople trong khi các văn bản Hy Lạp và La Mã khác tới từ các nguồn Hồi giáo, họ có được những văn bản và trí thức này thông qua các cuộc chinh phục, thậm chí đã tìm cách cải tiến một số chúng. Với lòng tự trọng thường thấy của các nhà tư tưởng tân tiến, những nhà nhân loại học coi sự tái sở hữu một quá khứ lẫy lừng là một sự Phục hưng - một sự tái sinh của chính nền văn minh.
Những sự kiện chính trị quan trọng cũng xuất hiện trong thời kỳ này. Văn bản chính trị của Niccolò Machiavelli trong The Prince (Quân Vương) đã ảnh hưởng tới chủ nghĩa chuyên chế và đời sống chính trị sau này. Các ông vua cai trị các quốc gia và sử dụng giới nghệ sĩ Phục hưng như một dấu hiệu quyền lực cũng đóng một vai trò quan trọng trong thời kỳ này.
Tổng thể, Phục hưng có thể được coi như một nỗ lực của giới trí thức nhằm nghiên cứu và cải thiện thế tục và trần gian, thông qua sự tái sinh các ý tưởng thời cổ, và thông qua những tiếp cận tư tưởng - quá khứ ngay trước quá "Gothic" trong ngôn ngữ, tư tưởng và tình cảm.
Cải cách
Trong giai đoạn này sự mục nát trong Nhà thờ Cơ đốc giáo đã dẫn tới một sự phản ứng trong Cải cách Tin Lành. Phong trào này được nhiều người ủng hộ đặc biệt với các hoàng thân và các vị vua đang tìm kiếm một nhà nước mạnh hơn bằng cách chấm dứt ảnh hưởng của Nhà thờ Cơ đốc giáo. Những cá nhân khác cùng Martin Luther bắt đầu xuất hiện như John Calvin với thuyết Calvin gây ảnh hưởng ở nhiều quốc gia và Vua Henry VIII của Anh đã rời bỏ Nhà thờ Cơ đốc giáo Anh và thiết lập Nhà thờ Anh (Trái với niềm tin của mọi người điều này chỉ đúng một nửa, con gái ông Nữ hoàng Elizabeth hoàn thành việc tổ chức Nhà thờ). Những sự phân ly tôn giáo này đã mang lại một làn sóng chiến tranh có nguyên nhân tôn giáo nhưng cũng bởi các tham vọng của những triều đình Tây Âu đang trở nên tập trung và hùng mạnh hơn.
Cuộc Cải cách Tin Lành cũng dẫn đến một phong trào cải cách mạnh bên trong Nhà thờ Cơ đốc giáo được gọi là Phản Cải cách, với mục tiêu giảm sự mục nát bên trong cũng như tăng cường sức mạnh của quyền lực giáo hội Cơ đốc giáo. Một nhóm quan trọng bên trong Nhà thờ Cơ đốc giáo xuất hiện từ phong trào này là Nhóm dòng Tên giúp giữ Đông Âu ở trong vòng ảnh hưởng của Cơ đốc giáo. Tuy thế, Nhà thờ Cơ đốc giáo vẫn bị suy yếu bởi cuộc Cải cách, nhiều phần ở Châu Âu không còn nằm trong vùng ảnh hưởng của nó và các vị vua ở các nước vẫn theo Cơ đốc giáo bắt đầu nắm quyền kiểm soát các định chế nhà thờ trong vương quốc của họ.
Không như Tây Âu, các nước Trung Âu, Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Lithuania và Hungary, khoan dung hơn. Tuy vẫn thúc đẩy sự thống trị của Cơ đốc giáo họ tiếp tục cho phép các nhóm tôn giáo nhỏ duy trì đức tin của mình. Trung Âu bắt đầu bị phân chia giữa Cơ đốc giáo, Tin Lành, Nhà thờ chính thống và Do thái giáo. Một sự phát triển quan trọng khác trong giai đoạn này là sự lớn mạnh của những tình cảm liên Châu Âu. Eméric Crucé (1623) xuất hiện với ý tưởng Hội đồng Châu Âu, mong muốn chấm dứt các cuộc chiến tranh ở Châu Âu; những nỗ lực tạo lập một nền hòa bình vĩnh cửu không thành công, dù tất cả quốc gia Châu Âu (ngoại trừ Nga và Đế chế Ottoman, được xem là ngoại lệ) đồng ý tạo lập hòa bình vào năm 1518 trong Hiệp ước London. Nhiều cuộc chiến tranh lại bùng nổ chỉ trong vài năm. Cuộc cải cách cũng khiến nền hòa bình ở Châu Âu là điều không thể trong nhiều thế kỷ.
Một sự phát triển khác là ý tưởng thượng đẳng của Châu Âu. Ý tưởng về văn minh được lấy từ người Hy Lạp và La Mã cổ đại: kỷ luật, giáo dục và cuộc sống trong thành phố là các yếu tố khiến con người trở nên văn minh; người Châu Âu và phi Châu Âu được phán xét theo tính cách lịch sự của họ, và Châu Âu tự coi mình là thượng đẳng so với các lục địa khác. Đã có một phong trào của một số người như Montaigne coi người phi Châu Âu là tốt hơn, tự nhiên và nguyên thủy hơn. Các dịch vụ thư tín đã được thiết lập khắp Châu Âu, cho phép chủ nghĩa nhân văn kết nối mạng lưới trí thức trên khắp Châu Âu, dù có những khác biệt tôn giáo. Tuy nhiên, Nhà thờ Cơ đốc giáo La mã đã cấm các tác phẩm khoa học mang tính đột phá; điều này dẫn đến sự phát triển mạnh hơn của trí thức tại các quốc gia Tin Lành, nơi việc cấm đoán không triệt để. Francis Bacon và những người khác ủng hộ khoa học tìm cách tạo lập một sự thống nhất ở Châu Âu bằng cách nhấn mạnh vào sự thống nhất trong thiên nhiên.1 Ở thế kỷ 15, cuối Thời Trung Cổ, các quốc gia có chủ quyền hùng mạnh xuất hiện, xây dựng những Vương triều Mới với quyền lực tập trung tại Pháp, Anh, và Tây Ban Nha. Mặt khác Nghị viện của Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Lithuania tăng cường quyền lực, nắm các quyền lập pháp của vua Ba Lan. Quyền lực nhà nước mới đã được tranh giành bởi các nghị viện ở các quốc gia khác đặc biệt là Anh. Các hình thái nhà nước mới xuất hiện là sự hợp tác giữa các vị lãnh chúa đất đai, các thành phố, các nước cộng hòa nông dân và các hiệp sĩ.
Thám hiểm và chinh phục
Nhiều cuộc chiến tranh không ngăn cản các quốc gia mới thám hiểm và chinh phục những vùng rộng lớn của thế giới, đặc biệt là Châu Á (Siberia) và Châu Mỹ mới được khám phá. Ở thế kỷ 15, Bồ Đào Nha lãnh đạo cuộc thám hiểm địa lý, tiếp đó là Tây Ban Nha hồi đầu thế kỷ 16. Đây là những nước đầu tiên thiết lập thuộc địa tại Châu Mỹ và các địa điểm thương mại trên bờ biển Châu Phi và Châu Á, nhưng Pháp, Anh và Hà Lan nhanh chóng theo bước. Năm 1552, sa hoàng Nga Ivan Hung bạo chinh phục hai khả hãn quốc Tatar lớn, Kazan và Astrakhan, và chuyến đi của Yermak năm 1580 dẫn tới sự sáp nhập Siberia vào Nga.
Sự mở rộng thuộc địa tiếp tục diễn ra trong những thế kỷ sau đó (với một số lần thoái trào, ví dụ như những cuộc chiến giành độc lập thắng lợi ở các thuộc địa Mỹ của Anh và sau đó là Mexico, Brazil, và các quốc gia khác ngoại vi Các cuộc chiến tranh Napoleon). Tây Ban Nha đã kiểm soát một phần Bắc Mỹ và một vùng lớn ở Trung Mỹ và Nam Mỹ, Caribbean và Philippines; Anh chiếm toàn bộ Australia và New Zealand, hầu hết Ấn Độ, và nhiều vùng lớn ở Châu Phi và Bắc Mỹ; Pháp giữ nhiều vùng của Canada và Ấn Độ (hầu như toàn bộ đã mất vào tay Anh năm 1763), Đông Dương, nhiều vùng lớn ở Châu Phi và các đảo Caribbean; Hà Lan giành được Đông Ấn (hiện là Indonesia) và các hòn đảo Caribbean; Bồ Đào Nha chiếm Brazil và nhiều lãnh thổ ở Châu Phi và Châu Á; và các cường quốc sau này như Đức, Bỉ, Italia và Nga cũng đi chiếm thuộc địa.
Sự mở rộng này đã giúp các nền kinh tế của các nước mẫu quốc phát triển. Thương mại tăng vọt, nhờ sự ổn định tạm thời của các đế chế. Tới cuối thế kỷ 16 số bạc của Châu Mỹ chiếm một phần năm tổng ngân sách Tây Ban Nha. Các nước Châu Âu tiến hành các cuộc chiến tranh với phần lớn chi phí từ các thuộc địa. Tuy vậy, những lợi nhuận từ buôn bán nô lệ và các loại thực vật Tây Ấn, là những khoản thu lớn nhất từ các thuộc địa Anh thời kỳ đó, chiếm chưa tới 5% nền kinh tế Đế quốc Anh (nhưng nói chung có lợi nhuận lớn hơn) ở thời kỳ Cách mạng Công nghiệp hồi cuối thế kỷ 18.
Khai sáng
Trong suốt thời kỳ đầu giai đoạn này, chủ nghĩa tư bản (thông qua Chủ nghĩa trọng thương) đã thay thế chủ nghĩa phong kiến trở thành hình thức tổ chức kinh tế chủ chốt, ít nhất ở nửa phía tây Châu Âu. Sự mở rộng các biên giới thuộc địa dẫn tới một cuộc Cách mạng thương mại. Giai đoạn này đáng chú ý ở sự nổi lên của khoa học hiện đại và sự áp dụng các thành tựu khoa học vào cải tiến kỹ thuật, dẫn tới cuộc Cách mạng công nghiệp. Sự khai thác Thế giới mới của Bán đảo Iberia (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, bắt đầu tư chuyến đi về phía tây của Christopher Columbus nhằm tìm kiếm một con đường thương mại ngắn hơn tới Đông Ấn năm 1492, nhanh chóng gặp sự cạnh tranh của người Anh và người Pháp. Các hình thức thương mại và mở rộng thương mại hình thành nên các hình thức chính phủ, luật pháp và kinh tế mới cần thiết.
Cuộc cải cách đã làm tổn hại lớn tới sự thống nhất của Châu Âu. Không chỉ các quốc gia bị chia rẽ khỏi nhau mà cả giữa phương hướng tôn giáo của họ, nhưng một số nước còn bị chia rẽ từ bên trong bởi các cuộc tranh giành tôn giáo, được ủng hộ mạnh từ các kẻ thù bên ngoài. Trong thế kỷ 16 Pháp đã trải qua tình trạng này với một loạt những cuộc xung đột được gọi là Các cuộc chiến tranh tôn giáo Pháp, chấm dứt với sự thắng lợi của Triều đại Bourbon. Anh Quốc tránh được trong một giai đoạn và xử lý được dưới thời Elizabeth để xoa dịu Giáo phái Anh. Đa phần nước Đức hiện đại ngày nay được hình thành nên từ nhiều quốc gia có chủ quyền nhỏ dưới hình thức Đế chế La Mã thần thánh lý thuyết. Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Lithuania đáng chú ý ở thời điểm này về sự thờ ơ với tôn giáo và nói chung miễn nhiễm với các cuộc tranh giành tôn giáo ở Châu Âu.
Cuộc chiến tranh ba mươi năm từ 1618 tới 1648, chủ yếu diễn ra trên lãnh thổ Đức ngày nay, và liên quan tới hầu hết cường quốc Châu Âu. Khởi đầu như một cuộc xung đột tôn giáo giữa những người Tin Lành và Cơ đốc giáo trong Đế chế La Mã thần thánh, nó dần phát triển thành một cuộc chiến của hầu hết Châu Âu, vì các lý do không nhất thiết liên quan tới tôn giáo. Tác động chính của cuộc chiến tranh, trong đó các đội quân vụ lợi được sử dụng rộng rãi, là sự tàn phá với toàn bộ vùng. Các giai đoạn bùng phát của nạn đói và bệnh dịch làm sút giảm dân số các lãnh thổ Đức, ở một mức độ thấp hơn gồm cả Các quốc gia vùng thấp và Italia, và làm kiệt quệ các cường quốc tham gia. Khoảng một phần tư tới một phần ba dân số Đức thiệt mạng vì các nguyên nhân chiến tranh hay bởi nạn đói liên quan tới chiến tranh.Cuộc chiến kéo dài ba mươi năm, nhưng những cuộc xung đột dẫn đến nó tiếp tục không được giải quyết trong khoảng thời gian lâu hơn thế.
Sau Hòa bình Westphalia chấm dứt chiến tranh có lợi cho các quốc gia quyết định liên minh tôn giáo của riêng mình, chủ nghĩa chuyên chế trở thành tiêu chuẩn của châu lục, tuy nhiều phần của Châu Âu đã thử nghiệm hình thức lập hiến với ảnh hưởng từ cuộc Nội chiến Anh và đặc biệt là cuộc Cách mạng vinh quang. Xung đột quân sự ở Châu Âu không dừng lại, nhưng ít tính phá hủy hơn với đời sống Châu Âu. Trong cuộc mở rộng về phía tây bắc, Thời đại Khai sáng đã mang lại một căn bản triết học cho tầm nhìn mới, và sự mở rộng tiếp tục của tri thức, được tăng cường bởi báo in, tạo ra các lực đẩy phi tôn giáo mới trong ý tưởng. Một lần nữa, Khối thịnh vương chung Ba Lan-Lithuania lại đứng ngoài trào lưu này, với cái gọi là Tự do vàng kiểu dân chủ của riêng nó.
Đông Âu là một khu vực tranh giành ảnh hưởng giữa Thụy Điển, Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Lithuania và Đế chế Ottoman. Giai đoạn này chứng kiến sự dần suy tàn của ba cường quốc đó và cuối cùng chúng được thay thế bởi các nền quân chủ chuyên chế được khai sáng, Nga, Phổ và Áo. Tới đầu thế kỷ 19, ba nước này đã trở thành các cường quốc mới, cùng nhau phân chia Ba Lan, còn Thụy Điển và Thổ Nhĩ Kỳ đã mất một phần lãnh thổ đáng kể vào tay Nga và Áo. Nhiều người Do Thái Ba Lan đã di cư tới Tây Âu, lập nên các cộng đồng Do Thái tại các địa điểm trước đây họ đã bị trục xuất đi trong Thời Trung Cổ.
"Thế kỷ 19 dài", từ 1789 tới 1914 chứng kiến những sự thay đổi xã hội, chính trị và kinh tế căn bản bắt nguồn từ cuộc Cách mạng Công nghiệp, Cách mạng Pháp và Các cuộc chiến tranh Napoleon, và sau sự tái tổ chức bản đồ chính trị Châu Âu tại Hội nghị Vienna năm 1815, sự nổi lên của Chủ nghĩa quốc gia, sự trỗi dậy của Đế chế Nga và thời kỳ đỉnh cao của Đế chế Anh, song hành với sự suy tàn của Đế chế Ottoman. Cuối cùng, sự nổi lên của Đế chế Đức và Đế chế Áo-Hung bắt đầu một loạt sự kiện sẽ dẫn tới sự bùng nổ của Thế chiến I năm 1914.
Cách mạng công nghiệp
Cách mạng Công nghiệp là một giai đoạn cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 khi những thay đổi lớn trong nông nghiệp, chế tạo, và vận tải đã đưa tới tác động sâu rộng trong các điều kiện kinh tế xã hội và văn hóa tại Anh Quốc và sau đó lan ra khắp Châu âu và Bắc Mỹ và cuối cùng là cả thế giới, một quá trình tiếp tục như công nghiệp hóa. Ở cuối những năm 1700 nền kinh tế dựa trên lao động thủ công của Vương quốc Anh bắt đầu bị thay thế bởi nền kinh tế công nghiệp và chế tạo bằng máy móc. Nó khởi đầu với sự cơ khí hóa trong ngành công nghiệp dệt, sự phát triển của các kỹ thuật gia công thép và sự tăng cường sử dụng than tinh chế. Khi nó đã bắt đầu. Sự mở rộng thương nghiệp được tạo điều kiện thuận lợi nhờ các kênh đào, đường xá được nâng cấp và đường sắt. Sự ra đời của động cơ hơi nước (chủ yếu sử dụng than) và máy móc cơ khí (chủ yếu trong ngành dệt) đã tạo cơ sở cho sự gia tăng mạnh trong năng suất chế tạo.Sự phát triển của các dụng cụ máy bằng sắt hoàn toàn trong hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 19 đã tạo điều kiện cho việc sản xuất thêm các máy móc chế tạo sử dụng trong các ngành công nghiệp khác. Các hiệu ứng của nó lan khắp Tây Âu và Bắc Mỹ trong thế kỷ 19, cuối cùng ảnh hưởng tới toàn bộ thế giới. Ảnh hưởng của nó trong việc làm thay đổi xã hội cực kỳ to lớn
Cách mạng chính trị
Sự can thiệp của Pháp vào cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ đã khiến nước này suy sụp. Sau nhiều nỗ lực cải cách tài chính bất thành, Louis XVI được thuyết phục triệu tập États Généraux, một cơ quan đại diện quốc gia gồm ba đẳng cấp: tăng lữ, quý tộc và thường dân. Các thành viên của État Généraux nhóm họp tại Cung điện Versailles tháng 5 năm 1789, nhưng cuộc tranh cãi về hệ thống bầu cử sẽ áp dụng nhanh chóng đi vào ngõ cụt. Tới tháng 6, đẳng cấp thứ ba
- 1 Phân tích As bằng phương pháp AAS
- 2 Phương pháp chỉ số
- 3 Các lý thuyết quản trị
- 4 GiỚi thiỆu:
- 5 Nguồn hình thành vốn cố định
- 6 Hao mòn, hư hỏng một số chi tiết điển hình
- 7 Tiến hóa trong thể cộng sinh
- 8 Thiết kế tiến trình dạy học bài: dao động điều hòa. con lắc lò xo
- 9 Digoxin
- 10 Một số ứng dụng trong tổ hợp