25/05/2018, 00:15

Lê Hiến Tông

Ông có tên húy Lê Tranh , sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ, 1461, tại kinh thành Thăng Long, tức Hà Nội, Việt Nam. Có nguồn ghi tên ông là Sanh (檉), Tăng (鏳) hoặc Huy (暉). Lê Tranh là con trưởng của Lê Thánh Tông, mẹ là Trường Lạc Thánh Từ ...

Ông có tên húy Lê Tranh, sinh ngày 10 tháng 8 năm Tân Tỵ, 1461, tại kinh thành Thăng Long, tức Hà Nội, Việt Nam. Có nguồn ghi tên ông là Sanh (檉), Tăng (鏳) hoặc Huy (暉). Lê Tranh là con trưởng của Lê Thánh Tông, mẹ là Trường Lạc Thánh Từ Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Hằng, con gái thứ hai của Trình quốc công Nguyễn Đức Trung.

Năm 1497, sau khi vua cha qua đời, Hoàng Thái tử Lê Tranh lên ngôi, lấy niên hiệu là Cảnh Thống.

là một vị vua thông minh, nhân từ và ôn hoà. Thường sau khi bãi triều, Hiến Tông ra ngồi nói chuyện với các quan. Ai có điều gì phải trái, ông nhẹ nhàng khuyên bảo, chứ không gắt mắng bao giờ. thường nói rằng:

“ Thánh Tổ ta đã gây dựng nên cơ đồ, vua cha ta đã sửa sang mọi việc, ta nay chỉ nên lo giữ gìn nếp cũ, và mở mang sự nhân chính ra cho sáng rõ công đức của ông cha trước.[1] ”

Ông là người chú trọng chăm sóc bảo vệ đê điều, đào sông, khai ngòi, đắp đường, trông coi việc nông trang làm ruộng, trồng dâu nuôi tằm v.v... Ông chú ý đến giáo dục quan lại chống thói quan liêu và tham nhũng. Những việc chính trị đều theo như đời Hồng Đức chứ không thay đổi gì cả.

Trong những năm trị vì, đất nước yên ổn không có loạn lạc. Năm 1504, bệnh nặng và qua đời ngày 23 tháng 5 năm Giáp Tý, thọ 44 tuổi. Thụy hiệu do Lê Túc Tông đặt cho ông là Thể thiên Ngưng đạo Mậu đức Chí chiêu Văn thiệu Vũ tuyên Triết khâm Thành chương Hiếu Duệ hoàng đế.

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có lời nhận xét về :

“ “Vua thiên tư anh minh thông tuệ, giữ vận thịnh trị, thái bình, mới trong khoảng 7 năm mà thiên hạ bình yên, xứng đáng là bậc vua giỏi giữa cơ đồ, thế mà ở ngôi không lâu, tiếc thay.”[1] ”

Vợ:

  • Trang Thuận hoàng hậu Nguyễn thị, huý Hoàn, người làng Bình Lăng, huyện Thiên Thi, mẹ đẻ Lê Túc Tông.
  • Chiêu Nhân phi Nguyễn thị, huý là Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, mẹ đẻ của Lê Uy Mục đế.
  • Kính phi Nguyễn thị, người Hoa Lăng, huyện Thủy Đường.

Con:

Ông sinh được 6 hoàng tử:

  • An vương Lê Tuân
  • Uy Mục Đế Lê Tuấn
  • Tự Hoàng Lê Thuần
  • Thông vương Lê Dung
  • Minh vương Lê Trị
  • Tư vương Lê Dưỡng.
  1. ^ a b Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Bản Kỷ Thực Lục, Quyển XIV
0