25/05/2018, 12:30

Làng đông ngạc

Làng Đông Ngạc (tên nôm là làng Vẽ hay Kẻ Vẽ, tên chữ là Đông Ngạc) là một làng cổ ở nằm sát chân cầu Thăng Long, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km. Đông Ngạc được coi là một trong những làng cổ nhất của Hà Nội. Làng còn được gọi là "làng tiến sĩ" do có ...

Làng Đông Ngạc (tên nôm là làng Vẽ hay Kẻ Vẽ, tên chữ là Đông Ngạc) là một làng cổ ở nằm sát chân cầu Thăng Long, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10 km. Đông Ngạc được coi là một trong những làng cổ nhất của Hà Nội. Làng còn được gọi là "làng tiến sĩ" do có rất nhiều vị tiến sĩ Hán học và Tây học là người làng. Làng còn nổi tiếng về một số nghề thủ công truyền thống như chuyên sản xuất nem ("giò Chèm, nem Vẽ"), làm quang gánh, nặn nồi đất...

Làng nổi tiếng với đình làng Đông Ngạc, một ngôi đình có quy mô to lớn, nhiều hạng mục với các thành phần kiến trúc cổ kính và chuẩn mực đã tồn tại từ 500 năm nay. Đình được xây dựng trên một thế đất cao ráo, đắc địa ở phía Bắc làng, sát với đê sông Hồng. Tương truyền, thời xưa đình vốn là một toà miếu cổ có từ thời Đường vào thế kỷ 7. Năm 1635, dân làng đã cải tạo và mở rộng thành đình để thờ thành hoàng làng. Đình thờ 3 vị thần tượng trưng cho cả Thiên - Địa - Nhân.

Thiên thần: Thần Độc Cước, do Phan Phu Tiên rước về từ Sầm Sơn, Thanh Hoá;

Nhân thần: Lê Khôi, cháu vua Lê Thái Tổ, là một tướng lĩnh làm đến chức Nhập nội tư mã, Thượng tướng quân, mất sau trận thắng thành Đồ Bàn. Thần được người làng là Đô đốc Đồng Xuyên Hầu rước về từ Nghệ An;

Địa thần: Bản thổ Thành hoàng. (trong các sắc phong còn giữ được đều ghi là Bảo Vệ Chương Hòa đôn ngưng thổ địa hiển trưng chi thần). Thần trừ tai chống hạn cầu cúng linh ứng. Kể từ khi có dân đến ở đến nay thì thần đã là Thành hoàng. Các triều đại đều có sắc phong, sự tích đã bị mai một, nay người dân không còn nhớ rõ nữa.

Ngoài ra Đình còn thờ tiến sĩ Phạm Quang Dung là người làng có công đứng ra trùng tu đình năm 1718 và ông Phạm Thọ Lý, người đã cung tiến đất làm đình lần đầu năm 1635. Trong đình hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật quí, có giá trị, như bia đá và bộ tranh sơn mài thời Lê.

Làng có chùa Tư Khánh với phong cách nghệ thuật thế kỷ 18 - 19. Chùa có quả chuông đúc năm Diên Hựu thứ 2 (1315). Trong chùa hiện còn có tấm bia có niên đại Thịnh Đức ghi rõ công đức của vợ chồng ông Nguyễn Phúc Ninh, cúng gia tư điền sản để tu bổ, dựng lại chùa, và được dân làng tôn làm Hậu Phật.

Làng hiện còn trên 100 ngôi nhà cổ có thời gian xây dựng trên 100 năm, trong đó có nhiều ngôi nhà gỗ được đục chạm công phu. Nhà thờ Đỗ Thế Giai, một quan chức cao cấp thời Lê Trịnh là nơi còn giữ được khá nhiều những di vật có giá trị, là ngôi nhà được chọn làm bối cảnh quay nhiều phim truyện, phim truyền hình.

Làng có 9 bài thơ dài để đọc lên lúc thưởng lụa và tiền cho các đào nương tron nghi lễ hát ca trù xưa đã được tổ chức vào dịp hội làng ngày 09 tháng 2 âm lịch hàng năm. 9 bài thơ này do Lê Đức Mao (1462 - 1529) một người hay chữ trong làng đã thay mặt các giáp soạn ra. Đây cũng là tư liệu chữ viết đầu tiên về ca trù trong kho tàng di sản Hán Nôm, và cũng là cứ liệu sớm nhất về thơ lục bát và song thất lục bát trong lịch sử văn học Việt Nam.

Làng Đông Ngạc đã là nơi xuất thân của 18 vị Tiến sĩ nho học (với 1 Thái học sinh, 1 Bảng nhãn, 2 Hoàng giáp và 14 Đồng tiến sĩ; gồm: Phan Phu Tiên-1429, Phạm Lân Định (Luân Định)-1514, Phạm Thọ Chỉ-1577, Phạm Hiển Danh-1646, Phạm Quang Trạch-1683, Phan Vinh Phúc-1685, Phạm Quang Hoàn-1694, Phạm Quang Dung-1706, Phạm Quang Ninh (Nguyên Ninh)-1731, Phan Lê Phiên-1757, Nguyễn Đình Thạc-1779, Hoàng Tế Mỹ-1826, Phạm Gia Chuyên-1831, Nguyễn Văn Tùng-1838, Nguyễn Hữu Tạo-1844, Phạm Quang Mãn-1849, Hoàng Tướng Hiệp-1865, Nguyễn Dự-1879)[1][2][3], 2 Phó bảng nho học (Nguyễn Văn Hội-1849, Hoàng Tăng Bí-1910)[4][5], 6 vị đỗ sĩ vọng (tức thi hội chỉ vào đến tam trường nhưng nổi tiếng là hiền tài nên cũng coi như tiến sĩ), 7 tiến sĩ thời Pháp, và thời nay đã có tới hơn 50 tiến sĩ.

Xưa làng Đông Ngạc có câu ngạn ngữ “Đất Kẻ Giàn, quan Kẻ Vẽ” để bày tỏ niềm tự hào có nhiều người thành đạt trong khoa bảng. Các tộc họ ở đây, tộc họ nào cũng có người đỗ đại khoa, ít nhất là một người, nhiều họ như họ Phạm là 16 người. Gia đình Hoàng giáp Hoàng Tế Mỹ từ khi định cư ở Đông Ngạc có 3 đời nối tiếp nhau đỗ Tiến sĩ và 1 Phó bảng (Hoàng Nguyễn Thự, Hoàng Tế Mỹ, Hoàng Tướng Hiệp, Hoàng Tăng Bí); cũng như gia đình Bảng nhãn Phạm Quang Trạch có tới 7 người đỗ đại khoa (từ Tiến sỹ Phạm Luân Định, Hoàng giáp Phạm Thọ Chỉ đến Tiến sĩ Phạm Quang Ninh) trong khoảng 217 năm (1514-1731).

Đông Ngạc đã sản sinh ra nhiều danh nhân, đóng góp lớn nhiều mặt ở nhiều lĩnh vực và mọi thời kỳ lịch sử:

Thời phong kiến có Phan Phu Tiên, Đỗ Thế Giai, Lê Đức Mao, Phạm Quang Trạch, Phạm Quang Dung, Phan Lê Phiên, Hoàng Nguyễn Thự (chuyển cư đến từ Đông Bình huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh), Hoàng Tế Mỹ, Phạm Gia Chuyên, Nguyễn Hữu Tạo,...

Thời cận-hiện đại với Phan Văn Trường, Hoàng Tăng Bí... và ngày nay là Hoàng Minh Giám (cố Bộ trưởng Bộ Văn Hoá), bác sĩ Hoàng Tích Trý (cố Bộ trưởng Bộ Y tế), Hoàng Tích Mịnh và Hoàng Thủy Nguyên (hai chú cháu đều được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh lĩnh vực y - dược), Trung tướng GS-TS Phạm Gia Khánh (Giám đốc Học viện Quân y), GS-TS Phạm Gia Khải (Viện trưởng Viện Tim mạch), TS Phạm Gia Khiêm (phó Thủ tướng Chính phủ Việt Nam) và những chính khách, nhà khoa học khác.

Bên cạnh truyền thống khoa bảng, làng Đông Ngạc còn là một địa bàn quan trọng trong kháng chiến chống Pháp ở thủ đô Hà Nội, là cơ sở y tế cứu chữa thương binh trong trận chiến bảo vệ Hà Nội năm 1946, và đã nuôi dấu nhiều cán bộ kháng chiến trong những năm Pháp chiếm đóng. Năm 2004, Ðảng bộ và nhân dân làng Ðông Ngạc đã được Nhà nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

0