Kỹ thuật nuôi trăn?
Kỹ thuật nuôi trăn Đặc điểm sinh học Trăn có nhiều loại khác nhau: bao gồm trăn đất, trăn gấm, trăn biến dạng. Song hiện nay nhân dân phát triển nuôi nhiều nhất là trăn gấm. Trước đây là loại trăn hoang dã, sống thành từng bầy trong các rừng vùng Cà Mau, Kiên Giang; ngày nay ...
Kỹ thuật nuôi trăn
Đặc điểm sinh học
Trăn có nhiều loại khác nhau: bao gồm trăn đất, trăn gấm, trăn biến dạng. Song hiện nay nhân dân phát triển nuôi nhiều nhất là trăn gấm. Trước đây là loại trăn hoang dã, sống thành từng bầy trong các rừng vùng Cà Mau, Kiên Giang; ngày nay được thuần hoá nuôi trong các gia đình, tạo thành vật nuôi thông dụng hiền lành, gần gũi với con người.
Trăn là loài ăn thịt, thức ăn chủ yếu là chuột, gà, vịt, thỏ, cá, chim... Trăn thích ăn vật sống; nếu luyện chúng cũng quen ăn vật chết. Trăn ăn chủ yếu là nuốt, không cắn xé và nghiền các con vật khác.
Răng sắc, quặp, chủ yếu là giữ mồi: trăn không có nọc độc, cắn không gây hại.
Từ 1 đến 20 ngày ăn 1 lần; có khả năng chịu đói hàng tháng.
Trăn đẻ ra trứng, ấp nở thành con. Trăn cái có gai nhỏ, thân mập, đuôi nhỏ; trăn đực có 2 gai giao cấu, đuôi dài và thuôn. 2 tuổi trăn có thể sinh sản, mỗi trăn có thể đẻ 1 quả trứng/1kg trọng lượng.
- Trăn sống và phát triển ở vùng nhiệt độ nóng. Dưới 15 độ C trăn không ăn, nằm yên chống rét, nhiệt độ ấm trở lại bắt đầu ăn. Trăn thường lột da, sau kì lột da trăn ăn và lớn nhanh.
Kỹ thuật nuôi
* Làm chuồng nuôi
Chuồng nuôi nên làm bằng sắt (xây xi măng cũng bị trăn phá hỏng). Qua thực tế rút ra nguyên tắc: Trăn rất khoẻ, nếu chui được đầu thì sắt 8-12 li đều bị bẻ gãy, hoặc xây bằng xi măng thì chúng cữ theo thành tưởng mà bò đi mất. Do đó làm chuồng phải bảo đảm "đầu không xuôi, đuôi không lọt":
+ Trăn nhỏ: 0,5 x 0,4 x 0,4m.
+ Trăn nhỡ: 0,6 x 0,5 x 0,4m.
+ Trăn to: 1,2 x 0,8 x 0,5m.
Chuồng 1 tầng hoặc 2 - 3 tầng:
+ Tầng trên nuôi trăn nhỏ: 0,5x0,4x0,4m.
+ Tầng dưới nuôi trăn to: 1x0,8x0,4m.
Giống nuôi:
Trứng sau khi ấp 58-60 ngày nở ra trăn con. Cho trăn con ăn gà con, chuột nhỏ, chim cút nhỏ. Cần nuôi trong chuồng nhỏ, mật độ 20-25 con/m2. Sau 3-5 ngày cho trăn ăn: dùng gà con hoặc chuột sống nhử cho trăn đớp ăn, rồi kéo lên thả ra ngoài cho trăn nuốt mồi, sau đó đỡ nhẹ bắt thả vào chuồng.
Cứ 3-5 ngày cho trăn ăn một lần. Khi trăn lớn, để mồi bên ngoài cho nuốt sống. Lương thực ăn tăng theo tuổi: 2 tháng tuổi cho ăn 2 con gà (hoặc 2 chuột nhỏ), 3 tháng tuổi cho ăn 3 con gà nhỏ. Đối với trăn khi còn nhỏ nếu 7-10 ngày mà không cho ăn thì khi cho thức ăn vào chuồng, trăn sẽ tranh nhau ăn, dễ làm chúng bị thương.
Phải có máng chứa nước cho trăn uống hoặc tắm mình cho dễ lột xác. Thường ngày phải dọn sạch phân trong chuồng, số phân thải ra không nhiều, phân khô, ít gây mùi thối: khoảng 5-7ngày, xả nước một lần.
Sau khi nuôi 4-5 tháng, trâưn dài 0,08m, nên chọn nuôi riêng thành chăn thịt.
Nuôi trăn thịt
Chọn trăn giống khoẻ mạnh, thân hình sống, không dị tật; con cái mập, đuôi nhỏ; con đực đuôi to và thuôn.
- Trăn đưa vào chuồng 5-7 ngày cho ăn một lần, thức ăn là gà hoặc chuột, chim cút sống. Có thể luyện cho trăn ăn các con vật mới chết, chú ý không cho ăn chuột chết hay bị đánh bả.
Trăn bắt mồi và quấn chặt làm cho con mồi chết rồi mới nuốt, trăn nuốt mồi chứ không cắn xé như một số con vật khác. Trăn lớn có thể nuốt con vật 1 kg và nằm ngủ cả tháng mới lại ăn tiếp.
Trăn dễ nuôi, 20 ngày đến 1 tháng cho ăn 1 lần vào lúc nào cũng được, đái ỉa ít nên ít tanh hôi; chuồng nuôi đơn giản, chi phí thấp, diện tích nuôi không cần rộng.
- Trăn nuôi 1 năm có thể tăng 10-15kg nếu chăm sóc tốt. Hệ số thức ăn: 4-5kg cho 1kg tăng trọng.
Mật độ thả: 4-5 con/m2.
Chất lượng và sản phẩm
Thịt trăn được chế biến thành nhiều mặt hàng. Da trăn có thể làm ví, cặp, đồ nữ trang. Mỡ trăn dùng chữa bỏng, bôi vào vết ngứa trên da; các vết thương đang chảy máu sẽ cầm máu ngay. Mật trăn ngâm rượu dùng xoa bóp những chỗ đau nhức.
Có thể pha tiết trăn với rượu, uống mát, bổ. Thịt, xương, da trăn nấu cao dùng cho người già, trẻ em, phụ nữ rất tốt.
Trăn cũng là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Trung Quốc, Nhật Bản... nhập trăn làm thực phẩm và thuốc quý.
Nguồn tin: (Theo NXB Nông Nghiệp)