25/05/2018, 13:57

Khương Hữu Dụng

(1907-2005) là nhà thơ hiện đại Việt Nam. Ông đã dịch nhiều tác phẩm thơ Đường của văn học Trung Quốc sang tiếng Việt. sinh trong một gia đình nghèo tại phố cổ Hội An tỉnh Quảng Nam vào ngày mồng 1 tháng Giêng năm Đinh Mùi (1907). ...

 (1907-2005) là nhà thơ hiện đại Việt Nam. Ông đã dịch nhiều tác phẩm thơ Đường của văn học Trung Quốc sang tiếng Việt.

sinh trong một gia đình nghèo tại phố cổ Hội An tỉnh Quảng Nam vào ngày mồng 1 tháng Giêng năm Đinh Mùi (1907). Học trường Quốc học Huế từ 1922 đến 1926, ông được gặp Phan Bội Châu từ năm 1926 và chịu ảnh hưởng nhiều của nhà chí sĩ cách mạng này. Ông làm thơ yêu nước đăng thường xuyên trên báo "Tiếng Dân" của Huỳnh Thúc Kháng từ năm 1927 đến 1935 và một số báo khác với bút danh Thế Nhu (do Phan Bội Châu đặt cho ông) và một số bút danh khác. Ông cũng dịch nhiều thơ Đường.

Thời kỳ Cách mạng tháng Tám năm 1945 ông ở trong Ban Thường vụ Việt Minh tỉnh Lâm Viên và tham gia Tổng khởi nghĩa tại Đà Lạt. Năm 1950 ông và cả hai con trai đều nhập ngũ. Con trai đầu Khương Thế Xương hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, con trai thứ hai Khương Thế Hưng tiếp tục đi bộ đội chống Mỹ và sau đó đã mất sớm vì di chứng chiến tranh nặng nề. 

Vào năm 1946 ông viết “Kinh nhật tụng của người chiến sĩ” với sự trợ tác của Nguyễn Đình Thư và Nguyễn Đình, bài diễn ca nói về việc tu dưỡng phẩm chất của người chiến sĩ cách mạng. Bài ca không ký tên tác giả, được lưu truyền rộng rãi trong các chiến sĩ cách mạng và kháng chiến, đặc biệt là ở các nhà tù thực dân. Năm 1947-1948 ông viết trường ca “Từ đêm Mười chín”, “một trong những trường ca xuất sắc nhất của thơ ca Việt Nam kháng chiến chống Pháp” (Tế Hanh), khắc họa cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Quảng Nam –Đà Nẵng trong thời gian bắt đầu cuộc kháng chiến đó. Câu thơ “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” trong bản trường ca này đã nổi tiếng là một câu thơ hay mà nhiều nhà thơ khác như Xuân Diệu, Tế Hanh ca ngợi.

Trong các thập niên 1960, 1970 một số sáng tác của ông được tập hợp trong các tập thơ “Những tiếng thân yêu”“Quả nhỏ”“Bi bô”. Ngoài sáng tác, ông dịch hàng ngàn bài thơ Đường của các nhà thơ Trung Quốc như Đỗ Phủ, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, thơ Tống của Lục Du và nhiều tác giả khác, cùng với thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Ninh Tốn, Hồ Chí Minh… Ông cũng dịch từ tiếng Pháp thơ của Dante vàVictor Hugo. Ông dịch thơ rất công phu, quan niệm “dịch là đối thoại” của ông được nhiều người hưởng ứng. Bản dịch bài thơ "Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị của ông đã được tu chỉnh trong suốt ba mươi năm và chỉ công bố vào năm ông 85 tuổi, là một bổ khuyết rất có giá trị cho bản dịch của Phan Huy Vịnh trước đó (theo ý kiến của nhà thơ Lê Đạt).

Các tác phẩm thơ của ông được tập hợp trong hai tuyển tập: " - phần sáng tác" và " - phần thơ dịch", các bài phê bình và tiểu luận liên quan đến thơ ông được tập hợp trong sách “ – một đời thơ”.

Ông mất ngày 17 tháng 5 năm 2005 tại Hà Nội, thọ 98 tuổi.

  • “Từ đêm Mười chín” – NXB Đà Nẵng, 1996.
  • “Những tiếng thân yêu” – NXB Văn học, Hà Nội, 1963.
  • “Quả nhỏ” – NXB Văn học, Hà Nội, 1972.
  • “Bi bô” – NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1985.
  • “Tuyển tập – phần sáng tác” – NXB Văn học, Hà Nội, 1992.
  • “Tuyển tập – phần thơ dịch” - NXB Văn học, Hà Nội, 2007.
  • “ - một đời thơ” – NXB Đà Nẵng, 2006.

Ông còn 2 tập thơ chưa xuất bản là “Lệ” và “Sương” gồm những bài thơ tâm tình khóc vợ, thương em.

0