24/05/2018, 14:28

Khôi phục và tổ chức lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp

Khôi phục sản xuất nông nghiệp có hai yêu cầu quan trọng: Một là , có đủ hàng hoá trao đổi với nông dân để kích thích nông nghiệp. Hai là , tập hợp lại giai cấp công nhân đang bị phân tán vì đói và thiếu việc làm, củng cố kĩ thuật lao động, ...

Khôi phục sản xuất nông nghiệp có hai yêu cầu quan trọng:

  • Một là, có đủ hàng hoá trao đổi với nông dân để kích thích nông nghiệp.
  • Hai là, tập hợp lại giai cấp công nhân đang bị phân tán vì đói và thiếu việc làm, củng cố kĩ thuật lao động, duy trì mức năng suất lao động cần thiết, để phát huy vai trò của công nghiệp và giai cấp công nhân

Để thực hiện những yêu cầu đó phải sắp xếp, lựa chọn lại những ngành công nghiệp phục vụ thiết thực cho xã hội, đặc biệt là chú ý phát triển tiểu thủ công nghiệp, là thứ công nghiệp mà ta có thể dễ dàng tìm được nguyên vật liệu để sản xuất.

Nhìn một cách tổng quát, quá trình khôi phục sản xuất công nghiệp có những đặc điểm có tính quy luật:

Một là

Khôi phục công nghiệp trên cơ sở kĩ thuật cũ.

Trong điều kiện khó khăn bây giờ, đấy là một tất yếu về hai phương diện kinh tế và xã hội.

phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cân đối với nguồn tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu.

Nhờ thực hiện cân đối nên đã đẩy nhanh được việc khôi phục các xí nghiệp tiên tiến, nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao năng suất lao động. Cũng do khôi phục công nghiệp dựa trên khả năng cân đối thực tế, nên nhà nước thực hiện được sự tập trung sản xuất trong công nghiệp cho phép tạo ra sản phẩm thặng dư và tạo điều kiện hoạch toán kinh tế.

bước đi của quá trình khôi phục công nghiệp.

Trước hết là khôi phục công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm là những ngành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. Tiếp đó khôi phục công nghiệp than. Các ngành công nghiệp nặng được khôi phục chậm hơn. Do tập trung sản xuất hợp lý và cân đối nên sớm tạo nguồn tích luỹ.

Nhờ những người công nhân lao động và những kết quả lớn lao sự khôi phục nông nghiệp, nên sản xuất công nghiệp đạt được nhịp độ cao chưa từng có, mức tăng sản phẩm trung bình hàng năm 41%. Đến năm 1926, công nghiệp đã vượt mức chiến tranh.

Bốn là

sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp.

Kinh tế tư nhân trong công nghiệp được phục hồi. Công nghiệp quốc doanh được phục hồi và củng cố, giữ vai trò chủ đạo trong tái sản xuất. Và năm 1923 đến 1924, tỷ trọng công nghiệp XHCN ngày càng làm cho khu vực kinh tế tư nhân phụ thuộc vào mình. Đó là cơ sở đảm bảo cho nhà nước sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có kết quả.

Năm là

Chuyển từ cơ cấu quản lý kinh tế tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hoạch toán kinh tế nguyên tắc tập trung dân chủ. Phương pháp quản lý bằng chỉ thị trước đây được thay bằng sự kết hợp tối ưu, phương pháp hành chính với phương pháp kinh tế. Sự chuyển biến trong quản lý công nghiệp bao gồm những nội dung chủ yếu sau:

  • Quá độ sang hoạch toán kinh tế. Các xí nghiệp hoạch toán kinh tế được quyền tổ chức cung ứng, quyuền tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường. Muốn chuyển sang hoạch toán kinh tế, không những phải đảm bảo quyền tự chủ của xí nghiệp về sản xuất mà còn thực thực hiện quyền tự chủ tài chính, nhất là phân phối lợi nhuận và tiền lương. Việc thực hiện quyền tự chủ về sản xuất tài chính phụ thuộc vào chính sách giá cả mà vấn đề then chốt là quan hệ tỷ giá hàng công nghiệp so với hàng nông sản. Chính sách điều tiết giá cả theo hai hướng: Các xí nghiệp thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã giảm giá hàng bán cho nông thôn đồng thời nhà nước tăng giá mua đáng kể những nông sản quan trọng nhất. Thực hiện nhiều biện pháp để giảm giá bán công nghiệp. Bằng các cuộc vận động củng cố kĩ thuật lao động, tiết kiệm nguyên liệu vật tư, chống lại cách làm ăn kinh tế đã làm tăng năng suất lao động. Kết quả là lợi nhuận của công nghiệp quốc doanh tăng lên hơn 4 lần.

Nhờ chính sách giá cả tích cực, nhà nước dành được thị trường nông thôn. trong năm 1924, đã thiết lập được tương quan giá trị giữa hai ngành công nghiệp và nông nghiệp, bảo đảm cho hai ngành phát triển ổn định, với nhịp độ khá cao.

  • Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô trong công nghiệp.

Khi các xí nghiệp quá độ sang hoạch toán kinh tế, sử dụng ngày càng rộng rãi quan hệ hàng hoá tiền tệ thì vấn đề đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô đặt ra ngày càng gay gắt. trong quá trình thực hiện NEP, nhiều hình thức quản lý phong phú đã được phát hiện và vận dụng theo khuynh hướng hoàn thiện và mở rộng phạm vi áp dụng cac nguyên tắc quản lý kinh tế XHCN dựa trện quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ. Do đó, đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô về thực chất là tăng cường công tác phối hợp giữa các ngành, các yếu tố của nền kinh tế quốc dân nhằm đạt được hiệu quả kinh tế tối ưu.

  • Dân chủ hoá quản lý kinh tế

Lênin coi việc lôi cuốn quần chúng vào việc quản lý là một vấn đề nguyên tắc, thể hiện đòi hỏi cả về mặt dân chủ lẫn mặt tập trung. Đây là kết quả của sự thay đổi tân gốc quan niệm về những vấn đề cơ bản về phát triển xã hội và kinh tế. Trong giai đoạn thực hiện NEP, dân chủ hoá trong quản lý kinh tế được thực hiện có kết quả trên nhiều mặt khác nhau: Tổ chức hội nghị sản xuất, thực hiện chế độ phân phối theo lao động, hình thức công khai và dân chủ trong việc lựa chọn cán bộ lãnh đạo - quản lý, thực hiện nguyên tắc và kiểm soát của công nhân.

0