24/05/2018, 17:23

Khái quát chung về tình hình kinh tế xã hội tỉnh Bắc Giang

Bắc Giang là một tỉnh miền núi được tái lập theo Nghị quyết ký họp thứ 10 quốc hội khoá 9. Bắc Giang ở phía Bắc thủ đô Hà Nội, là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi, trung tâm thị xã Băc Giang cách Hà Nội 50 Km, phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, ...

Bắc Giang là một tỉnh miền núi được tái lập theo Nghị quyết ký họp thứ 10 quốc hội khoá 9. Bắc Giang ở phía Bắc thủ đô Hà Nội, là tỉnh thuộc vùng trung du miền núi, trung tâm thị xã Băc Giang cách Hà Nội 50 Km, phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Nam giáp tỉnh Băc Ninh, phía Đông giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp tỉnh Thái Nguyên.

Bắc Giang có 9 huyện và 1 thị xã ( trong đó có 6 huyện miền núi, 1 huyện vùng cao, 3 huyện trung du ). Toàn tỉnh có 227 xã, phường, thị trấn (206 xã, 7 phường, 14 thị trấn ). Số xã miền núi là 126 xã, xã vùng cao 43 xã, xã trung du 58 xã.

  • Đất đai: tổng diện tích tự nhiên 382 ngàn ha, trong đó đất nông nghiệp 101.6 ha, đất lâm nghiệp 124.6 ngàn ha.
  • Bắc Giang chia làm 2 vùng: vùng trung du 108.4 ngàn ha chiếm 72%.
  • Dân số - lao động: Dân số trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cho đến cuối năm 2000: 1.44tr người.

Trong đó: thành thị có 80.246 người, chiếm 93.7%, mật độ dân số 377 người/Km2.

Lao động trong độ tuổi 830 ngàn. Trong đó lao động khu vực nông thôn 772 ngàn người.

  • Tài nguyên khoáng sản: có các loại mỏ than, đồng, nhôm, barit, vàng, chì, nguyên liệu để sản xuất vật liệu xây dựng, nhưng trữ lượng ít, hàm lượng thấp, phân tán, điều kiện khai thác khó khăn.
  • Nhịp độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 1996-2000 tăng hàng năm 6.45%.
  • GDP bình quân/ người năm 2000: 250 USD, bình quân hàng năm tăng 5.46%.
  • Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp - Dịch vụ trong GDP.

Năm 1990 Năm 2000

Nông - lâm nghiệp 61.49% 46.25%

Công nghiệp - xây dựng 15.87% 25.48%

Dịch vụ 22.64% 28.27%

  • Nông - lâm nghiệp: sản lượng thực năm 2000 :495 ngàn tấn, tăng bình quân hàng năm ( 1996 -2000 ) 3.2%. Lương thực bình quân đầu người năm 2000 344kg/người. Diện tích gieo trồng năm 2000: 120.5 ngàn ha. Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày đang được khôi phục lại. Bình quân 1996-2000 sản lượng lạc vỏ tăng 5.07%, đậu tương tăng 3.14%.

Chăn nuôi tiếp tục phát triển, năm 1996 đàn bò 64.9 ngàn con, đàn trâu 142.2 ngàn con, đàn lợn 565 ngàn con. Bình quân thời kỳ 1996-2000 đàn trâu tăng 0.18%, đàn bò tăng 5.6%, đàn lợn tăng 6.7%.

Sản xuất Lâm nghiệp: Nhân dân nhân thức được tầm quan trọng của kinh tế đồi rừng. Phong trào cải tạo vườn tạp trồng cây ăn quả phát triển rộng khắp các huyện.

Các dự án trồng rừng bằng vốn đầu tư nước ngoài: Dự án care, dự án cộng hoà Liên bang Đức, dự án PAM đã và đang triển khai trên các huyện miền núi.

  • Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp (TTCN):

Giá trị sản xuất công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp năm 2000 đạt 127.89 tỷ đồng, tăng bình quân thời kỳ 1996-2000 là 11.7% về quy mô: Công nghiệp và TTCN địa phương nhỏ bé, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bình quân mỗi đơn vị có 550 triệu đồng, chủ yếu là nhà xưởng, bao che.

  • Kinh tế đối ngoại - thương mại - dịch vụ:

+ Đang triển khai 3 dự án đầu tư nước ngoài trong các lĩnh vực: khách sạn, chế biến lâm sản, sản xuất hàng thủ công mỹ nghê, với tổng số vốn đầu tư theo giấy phép gần 2 triệu USD. Công tác xuất nhập khẩu chuyển biến chậm, nguồn hàng xuất khẩu chưa ổn định, chủ yếu thu gom, hàng sản xuất tại địa phương chiếm tỷ lệ thấp.

+ Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán ra trên thị trường năm 1996 : 1.133 tỷ đồng, tăng 13.5% so với năm 1995.

Thu chi ngân sách: nguồn thu ở địa phương còn rất mỏng, hạn hẹp, mới đảm bảo từ 20-25% nhu cầu chi. Hàng năm trung ương phải trợ cấp cho ngân sách địa phương từ 75-80%.

  • Tỉnh có 5 hệ thống thuỷ nông, trong đó liên huyện 2, độc lập 3; năng lực tưới 71.9 ngàn ha, năng lực tưới 60.6 ha.
  • Về đường giao thông: tổng chiều dài đường bộ 7485km trong đó đường Quốc lộ: 277 km, đường tỉnh lộ: 342 Km, đường huyện 681 km, còn lại là đường liên thôn, liên xã.
  • Về bưu điện: đã lắp đặt 14 hệ thống tổng đài tự động, tỉnh hiện có hơn 10.000 máy điện thoại, mật độ máy điện thoại 0.7máy/100 dân.
  • Về điện: 10/10 huyện thị xã có điện lưới quốc gia, 211 phường xã thị trấn có điện (84%). Vùng trung du 99% số xã, miền núi 65% số xã có điện.
  • Một số công trình phúc lợi công công: cấp thoát nước thị xã, giao thông nội thị, ... đang được đầu tư xây dựng.

Nhìn chung, cơ sở vật chất kỹ thuật trên địa bàn tỉnh còn hết sức hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp hoa, hiện đại hoá ở địa phương.

Tóm lại: Trong giai đoạn 1996-2000, nền kinh tế của tỉnh đã có bước tăng trưởng, cơ cấu kinh tế bước đầu chuyển dịch theo hướng tích cực, cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng được xây dựng tăng thêm đời sống nhân dân ổn định, một bộ phận được cải thiện, sự nghiệp văn hoá - xã hội có chuyển biến tiến bộ. Bên cạnh những thành tích đạt được, tồn tại chính là: chưa khai thác tốt mọi tiềm năng để phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm so với mức bình quân chung của cả nước. Nền kinh tế của tỉnh cơ bản vẫn là thuần nông. Cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tâng còn thiếu và thấp kém.

Đầu tư là chìa khoá trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh nhất thiết phải đầu tư thoả đáng. Điều đó càng đúng với các quốc gia có điểm xuất phát thấp, phát triển kinh tế từ nông nghiệp, nghèo nàn lạc hậu. Bắc giang cũng không năm ngoài quy luật này.

Để đạt mục tiêu về tăng bình quân GDP đầu người, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo khuynh hướng CNH_HĐH, để đạt được nhịp độ tăng trưỏng kinh tế như dự báo thì vấn đề bức xúc hiện nay đặt ra cho Bắc Giang là đầu tư phát triển của tỉnh.

Bắc Giang là một tỉnh miền núi, nằm ở phía bắc thủ đô Hà Nội, trung tâm thị xã Bắc Giang cách Hà Nội 50 km, phía Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn, phía Nam giáp tỉnh Bắc Ninh, phía Đông gíap tỉnh Quảng Ninh, phía tây giáp tỉnh Thái Nguyên. Đây là môt ưu thế về vị trí địa lý để Bắc Giang có điều kiện phát triển kinh tế, đăc biệt là nông ngiệp và dịch vụ du lịch

Về nông nghiệp: Với diện tích chủ yếu dành cho sản xuất nông nghiệp, tỉnh Bắc Giang có ưu thế về các loại sản phẩm nông nghiệp, như hoa quả, động vật nuôi, các loại gỗ quý. Đường giao thông đi lại thuận lợi, có thể giao lưu buôn bán các sản phẩm nông nghiệp với các tỉnh bạn, đặc biệt là thông qua đường biên giới tỉnh Lạng sơn có thể xuất khẩu sản phẩm nông sản chế biến sang Trung Quốc - một thị trường rộng lớn đang được khai thác trong những năm gần đây.

Về du lịch: Tiềm năng du lịch, dịch vụ của tỉnh cũng rất lớn do địa hình là miền núi trung du, khí hậu ôn hoà, nhiều phong cảnh đẹp, đồng thời có vị trí địa lý gần với các tỉnh bạn thuận lợi cho việc giao lưu giữa các vùng khác dễ dàng. Hiện nay các thành phố lớn đã trở nên quá tải và bầu không khí ngột ngạt vì vậy việc tìm về những nơi có khí hậu trong lành, cảnh đẹp núi rừng, chiêm ngưỡng các nét văn hoá của các dân tộc ít người, đi thăm các trang trại, tham gia vao các lễ hội truyền thống của ông cha ta là một việc rất hấp dẫn. Vì vậy trong những năm qua Bắc Giang đã không ngừng đầu tư vào các khu du lịch sinh thái, như thắng cảnh khuôn thần - Lục Ngạn, thắng cảnh Suối mỡ - Lục Nam tạo điều kiện để thu hút khách du lịch trong và ngoài tỉnh. Tuy nhiên vẫn cón có rất nhiều nơi có thể phát triển thành khu du lịch sinh thái có thể thu hút khách du lịch và điều này đòi hỏi phải đầu tư vào ngành du lịch.

Như vậy nhu cầu đầu tư vào tỉnh Bắc Giang là rất cao, kể cả về mặt khách quan lẫn chủ quan. Về mặt chủ quan do tỉnh còn nghèo, cơ sở vật chất kỹ thuật, cũng như cơ sở hạ tầng còn hạn chế, việc tăng cường đầu tư phát triển nâng cao đời sống kinh tế xã hội là điều tất yếu, đó cũng là xu hướng chung của nước ta hiện nay. Về mặt khách quan do tỉnh thực hiện kinh tế mở hướng ra bên ngoài, nguồn nhân lực dồi dào, cùng các tiêm lực sẵn có thì việc đầu tư từ bên ngoài vào để kiếm lời là cũng là điều tất yếu khách quan, tuân theo quy luật của thị trường. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là làm sao kết hợp giữa khách quan và chủ quan để tạo ra bước nhảy vọt tạo đà phát triển lâu dài cho tỉnh.

Trong thời gian tới theo xu hướng chung của đất nước và sẵn có những thế mạnh riêng của mình, Bắc Giang sẽ thu hút được nhiều vốn đầu tư, nhưng việc tiếp nhận và hấp thụ vốn đầu tư đó theo cách nào lại là vấn đề đặt ra cần được giải quyết.

Đầu tư vào tỉnh phải ngay từ bước đầu giải quyết được những mất cân đối lớn về cơ cấu, giải quyết những khó khăn về đời sống của tỉnh, đặc biệt là khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phải nâng cao mức sống cũng như trình độ dân trí của người dân.

Tóm lại, Bắc Giang đang đứng trước những cơ hội mới và thử thách mới, tỉnh Bắc Giang cần giải quyết những khó khăn và sử dụng lợi thế so sánh của mình, bổ sung những hạn chế, đẩy nhanh tăng cường hoà nhập kinh tế, hoà nhập vào xu thế chung của đất nước.

0