25/05/2018, 12:06

Họ Cò quăm

(danh pháp khoa học: Threskiornithidae) là một họ bao gồm khoảng 34 loài chim lớn sống trên đất liền và lội nước, được chia ra làm 2 phân họ, bao gồm cò quăm và cò thìa. Trước đây nó còn có tên khoa học là Plataleidae. Cò quăm và cò thìa nói chung được coi ...

(danh pháp khoa học: Threskiornithidae) là một họ bao gồm khoảng 34 loài chim lớn sống trên đất liền và lội nước, được chia ra làm 2 phân họ, bao gồm cò quăm và cò thìa. Trước đây nó còn có tên khoa học là Plataleidae. Cò quăm và cò thìa nói chung được coi là có quan hệ họ hàng với các nhóm chim chân dài, lội nước khác trong bộ Ciconiiformes, bao gồm cò, cò lửa và diệc nhưng nghiên cứu gần đây cho thấy chúng thuộc về bộ Bồ nông (Pelecaniformes). Đại hội Điểu học quốc tế (IOC) gần đây đã phân loại lại họ Threskiornithidae cùng đơn vị phân loại chị em của nó là họ Ardeidae vào bộ Pelecaniformes thay vì bộ trước đây là bộ Ciconiiformes.

Bên cạnh đó, việc hai phân họ này có là đơn ngành tương đối so với nhau hay không vẫn là câu hỏi để ngỏ. Mục từ cho Threskiornithidae trong danh lục của Ủy ban phân loại chim Nam Mỹ chứa ghi chú sau "Two subfamilies are traditionally (e.g., Matheu & del Hoyo 1992) recognized: Threskiornithinae for ibises and Plataleinae for spoonbills; because the main distinction has to do with bill shape, additional information, especially genetic, is required to recognize a major, deep split in the family." nghĩa là: Hai phân họ theo truyền thống (chẳng hạn Matheu & del Hoyo 1992) được công nhận: Threskiornithinae cho cò quăm và Plataleinae cho cò thìa; do khác biệt chính là hình dạng của mỏ, nên các thông tin bổ sung, đặc biệt là di truyền học, là cần thiết để công nhận sự chia tách sâu và lớn trong họ.

Các thành viên trong họ có cánh dài, rộng với 11 lông cánh sơ cấp và khoảng 20 lông thứ cấp. Chúng là các loài chim bay khỏe và một cách đáng ngạc nhiên, khi xét tới kích thước và khối lượng của chúng, là những loài chim bay vút lên rất nhanh. Cơ thể chúng nói chung thuôn dài, cổ thuôn dài và chân dài. Mỏ cũng dài, cong về phía dưới ở các loài cò quăm, thẳng và bẹt đặc trưng ở cò thìa. Chúng là các loài chim lớn, nhưng về kích thước chỉ là trung bình trong bộ, nằm trong khoảng từ nhỏ như ở cò quăm ôliu lùn (Bostrychia bocagei) với kích thước 45 cm (18 inch) và cân nặng 450 g (1 lb), tới lớn như ở cò quăm lớn (Thaumatibis gigantea) với kích thước 100 cm (40 inch) và cân nặng 4,2 kg (9,2 lb).

Chúng phân bố gần như khắp thế giới, gần như được tìm thấy gần mọi khu vực có nước ngọt (hay lợ) tĩnh tại hay chảy chậm. Cò quăm cũng thấy tại các khu vực khô hơn, bao gồm các bãi rác rìa vùng đô thị. Tất cả đều là các loài kiếm ăn ban ngày, chúng miệt mài kiếm ăn cả ngày với thức ăn là nhiều chủng loại động vật không xương sống cũng như động vật có xương sống nhỏ: cò quăm thăm dò trong đất mềm và bùn, cò thìa thì bằng cách vung vẩy mỏ từ bên này sang bên kia trong các vùng nước nông. Ban đêm, chúng đậu trên cây gần mặt nước. Chúng sống thành bầy, kể cả khi đi kiếm ăn lẫn khi đậu nghỉ trên cây hay khi bay, thường thành từng đàn.

Làm tổ thành bầy thấy ở cò quăm, trong khi cò thìa thường tạo thành các nhóm nhỏ hay đơn lẻ, gần như luôn luôn trên cây, sát với mặt nước, nhưng đôi khi trên các đảo hay đảo nhỏ trong vùng đầm lầy. Nói chung, chim mái sẽ xây một tổ với kết cấu lớn từ lau sậy và que củi do chim trống tha về. Mỗi lứa đẻ khoảng 2 tới 5 trứng; chim non nở không cùng một lúc. Cả chim trống lẫn chim mái đều thay phiên nhau ấp trứng, và sau khi chim con chào đời thì chúng nuuoi con bằng cách mớm mồi. Khoảng 2-3 tuần sau khi nở thì chim non không cần chăm sóc liên tục và có thể rời tổ, thường tụ tập lại với nhau nhưng sẽ trở về để được chim bố mẹ của chúng cho ăn.

HỌ: THRESKIORNITHIDAE

  • Phân họ: Threskiornithinae - Cò quăm
    • Chi Threskiornis
      • Cò quăm trắng châu Phi, Threskiornis aethiopicus
      • Cò quăm trắng Madagascar, Threskiornis bernieri
      • Cò quăm trắng Réunion, Threskiornis solitarius tuyệt chủng
      • Cò quăm đầu đen, Threskiornis melanocephalus
      • Cò quăm trắng Australia, Threskiornis molucca
      • Cò quăm cổ vàng rơm, Threskiornis spinicollis
    • Chi Pseudibis
      • Cò quăm đen Ấn Độ, Pseudibis papillosa
      • Cò quăm cánh xanh hay cò quăm vai trắng, Pseudibis davisoni
    • Chi Thaumatibis
      • Cò quăm lớn hay quăm lớn, Thaumatibis gigantea
    • Chi Geronticus
      • Cò quăm hói phương bắc, Geronticus eremita
      • Cò quăm hói phương nam, Geronticus calvus
    • Chi Nipponia
      • Cò quăm mào Nhật Bản, Nipponia nippon
    • Chi Bostrychia
      • Cò quăm ôliu, Bostrychia olivacea
      • Cò quăm ôliu lùn, Bostrychia bocagei
      • Cò quăm ngực đốm, Bostrychia rara
      • Cò quăm Hadada, Bostrychia hagedash
      • Cò quăm yếm, Bostrychia carunculata
    • Chi Theristicus
      • + Cò quăm chì, Theristicus caerulescens
      • + Cò quăm cổ vàng sẫm, Theristicus caudatus
      • + Cò quăm mặt đen, Theristicus melanopis
    • Chi Cercibis
      • Cò quăm đuôi nhọn, Cercibis oxycerca
    • Chi Mesembrinibis
      • Cò quăm xanh, Mesembrinibis cayennensis
    • Chi Phimosus
      • Cò quăm mặt trần, Phimosus infuscatus
    • Chi Eudocimus
      • Cò quăm trắng châu Mỹ, Eudocimus albus
      • Cò quăm đỏ, Eudocimus ruber
    • Chi Plegadis
      • Quắm đen, Plegadis falcinellus
      • Cò quăm mặt trắng, Plegadis chihi
      • Cò quăm Puna, Plegadis ridgwayi
    • Chi Lophotibis
      • Cò quăm mào Madagascar, Lophotibis cristata
  • Phân họ: Plateinae - Cò thìa
    • Chi Platalea
      • Cò thìa châu Âu, Platalea leucorodia'
      • Cò thìa hay cò thìa mặt đen, Platalea minor
      • Cò thìa châu Phi, Platalea alba
      • Cò thìa mỏ đen, Platalea regia
      • Cò thìa mỏ vàng, Platalea flavipes
      • Cò thìa hồng, Platalea ajaja
0