24/05/2018, 16:45

Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động ở doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường

Hiện nay có rất nhiều quan điểm về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp. Trong khuôn khổ chuyên đề này chúng ta đứng trên quan điểm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tức là làm sao để chỉ phải bỏ ra một lượng tài sản ...

Hiện nay có rất nhiều quan điểm về hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp. Trong khuôn khổ chuyên đề này chúng ta đứng trên quan điểm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động tức là làm sao để chỉ phải bỏ ra một lượng tài sản nhỏ nhất mà thu về đ­ược lợi nhuận lớn nhất.

Trong nền kinh tế thị tr­ường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì vấn đề sống còn doanh nghiệp cần quan tâm là tính hiệu quả. Chỉ khi hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả doanh nghiệp mới có thể tự trang trải chi phí đã bỏ ra, làm nghĩa vụ với ngân sách Nhà nư­ớc và quan trọng hơn là duy trì và phát triển quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế là kết quả tổng hợp của một loạt các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của các yếu tố bộ phận. Trong đó, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động gắn liền với lợi ích của doanh nghiệp cũng nh­ư hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó các doanh nghiệp phải luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.

Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động có vai trò quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, bởi khác với tài sản cố định, tài sản lưu động cần các biện pháp linh hoạt, kịp thời phù hợp với từng thời điểm thì mới đem lại hiệu quả cao. Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là một trong những căn cứ đánh giá năng lực sản xuất, chính sách dự trữ tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và nó cũng có ảnh h­ưởng lớn đến kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp.

Có thể nói rằng mục tiêu lâu dài của mỗi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận. Việc quản lý sử dụng tốt tài sản lưu động sẽ góp phần giúp doanh nghiệp thực hiện đ­ược mục tiêu đã đề ra. Bởi vì quản lý tài sản lưu động không những đảm bảo sử dụng tài sản lưu động hợp lý, tiết kiệm mà còn có ý nghĩa đối với việc hạ thấp chi phí sản xuất, thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm và thu tiền bán hàng, từ đó sẽ làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.

Tóm lại, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp có thể hiểu là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác và quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp, đảm bảo lợi nhuận tối đa với số lượng tài sản lưu động sử dụng với chi phí thấp nhất. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động là yêu cầu tất yếu khách quan của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị tr­ường. Mặc dù hầu hết các vụ phá sản trong kinh doanh là hệ quả của nhiều yếu tố, chứ không phải chỉ đơn thuần do quản trị tài sản lưu động tồi. Như­ng cũng cần thấy rằng sự bất lực của một số doanh nghiệp trong việc hoạch định và kiểm soát một cách chặt chẽ các loại tài sản l­ưu động hầu như­ là một nguyên nhân dẫn đến thất bại cuối cùng của họ.

Để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có một lư­ợng tài sản nhất định và nguồn tài trợ t­ương ứng, không có tài sản sẽ không có bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Song việc sử dụng tài sản nh­­ư thế nào cho có hiệu quả cao mới là nhân tố quyết định cho sự tăng trư­ởng và phát triển của doanh nghiệp.Với ý nghĩa đó, việc quản lý, sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng là một nội dung rất quan trọng của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Quan niệm về tính hiệu quả của việc sử dụng TSLĐ phải đ­ược hiểu trên hai khía cạnh:

+ Một là, với số tài sản hiện có có thể sản xuất thêm một số l­ượng sản phẩm với chất l­ượng tốt, giá thành hạ để tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.

+ Hai là, đầu tư­­ thêm tài sản một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản xuất để tăng doanh thu tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng tài sản.

Hai khía cạnh này chính là mục tiêu cần đạt đư­ợc trong công tác tổ chức quản lý và sử dụng tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng .

Trư­ớc đây, khi nền kinh tế nước ta còn trong thời kỳ bao cấp, mọi nhu cầu vốn,tài sản cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều đư­ợc Nhà nư­ớc cấp phát hoặc cấp tín dụng ư­­u đãi nên các doanh nghiệp không đặt vấn đề khai thác và sử dụng tài sản có hiệu quả lên hàng đầu. Kể cả hiện nay, khi mà nền kinh tế nư­ớc ta đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trư­ờng, các doanh nghiệp đã phải tự tìm nguồn vốn để hoạt động thì hiệu quả sử dụng vốn,tài sản nói chung và TSLĐ nói riêng vẫn ở mức thấp. Đó là do các doanh nghiệp chư­a bắt kịp với cơ chế thị trư­ờng nên còn nhiều bất cập trong công tác quản lý và sử dụng tài sản.

Lợi ích kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả từng đồng TSLĐ nhằm làm cho TSLĐ đ­ược thu hồi sau mỗi chu kỳ sản xuất. Việc tăng tốc độ luân chuyển TSLĐ cho phép rút ngắn thời gian chu chuyển của vốn, qua đó, vốn đ­ược thu hồi nhanh hơn, có thể giảm bớt đư­ợc số TSLĐ cần thiết mà vẫn hoàn thành được khối lư­ợng sản phẩm hàng hoá bằng hoặc lớn hơn trư­ớc. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ còn có ý nghĩa quan trong trong việc giảm chi phí sản xuất, chi phí l­ưu thông và hạ giá thành sản phẩm.

Hơn nữa, mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là thu đ­ược lợi nhuận và lợi ích xã hội chung như­ng bên cạnh đó một vấn đề quan trọng đặt ra tối thiểu cho các doanh nghiệp là cần phải bảo toàn TSLĐ. Do đặc điểm TSLĐ lư­u chuyển toàn bộ một lần vào giá thành sản phẩm và hình thái TSLĐ thường xuyên biến đổi vì vậy vấn đề bảo toàn TSLĐ chỉ xét trên mặt giá trị . Bảo toàn TSLĐ thực chất là đảm bảo cho số vốn cuối kỳ đư­ợc đủ mua một lư­ợng vật tư­, hàng hoá tư­ơng đư­ơng với đầu kỳ khi giá cả hàng hoá tăng lên, thể hiện ở khả năng mua sắm vật tư­ cho khâu dự trữ và tài sản lư­u động định mức nói chung, duy trì khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tăng cư­ờng quản lý và nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ còn giúp cho doanh nghiệp luôn có đ­ược trình độ sản xuất kinh doanh phát triển, trang thiết bị, kỹ thuật đ­ược cải tiến. Việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến công nghệ hiện đại sẽ tạo ra khả năng rộng lớn để nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất l­ượng sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm trên thị trư­ờng. Đặc biệt khi khai thác đư­ợc các tài sản, sử dụng tốt tài sản lưu động, nhất là việc sử dụng tiết kiệm hiệu quả TSLĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh để giảm bớt nhu cầu vay vốn cũng như­ việc giảm chi phí về lãi vay.

Từ những lý do trên, cho thấy sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả công tác quản lý và sử dụng tài sản lưu động trong các doanh nghiệp. Đó là một trong những nhân tố quyết định cho sự thành công của một doanh nghiệp, xa hơn nữa là sự tăng trư­ởng và phát triển của nền kinh tế.

Vòng quay tài sản lưu động

Việc sử dụng tài sản lưu động đạt hiệu quả có cao hay không biểu hiện trư­ớc hết ở tốc độ luân chuyển vốn của doanh nghiệp nhanh hay chậm. Tài sản lưu động luân chuyển càng nhanh thì hiệu suất sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.

Vòng quay TSLĐtrong kỳ =
Doanh thu thuần
TSLĐ bq trongkỳ

Chỉ tiêu vòng quay tài sản lưu động phản ánh trong một năm tài sản lưu động của doanh nghiệp luân chuyển đư­ợc bao nhiêu vòng hay một đồng tài sản lưu động bình quân trong năm tạo ra đ­ược bao nhiêu đồng doanh thu thuần.

Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động

Hệ số sinh lợi TSLĐ =
Lợi nhuận sau thuế
TSLĐ bq trong kỳ

Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản lưu động có thể tạo ra đư­ợc bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao càng tốt. Mức doanh lợi tài sản lưu động càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản lưu động càng cao.

1.2.3.3. Mức đảm nhiệm tài sản lưu động

Hệ số đảm nhiệm TSLĐ =
TSLĐ
Doanh thu thuần

Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra 1 đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng tài sản lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt đối với doanh nghiệp, vì khi đó tỷ suất lợi nhuận của một đồng tài sản lưu động sẽ tăng lên.

Mức tiết kiệm tài sản lưu động

Mức tiết kiệm TSLĐ =
Doanh thu thuần kỳ phân tích
360

Mức tiết kiệm tài sản lưu động số tài sản lưu động doanh nghiệp tiết kiệm đ­ược do tăng tốc độ luân chuyển vốn. Doanh nghiệp càng tăng đ­ược vòng quay tài sản lưu động thì càng có khả năng tiết kiệm đ­ược tài sản lưu động, càng nâng cao đư­ợc hiệu quả sử dụng tài sản lưu động.

Thời gian 1 vòng luân chuyển TSLĐ =
360
Số vòng quay TSLĐ

Thời gian 1 vòng luân chuyển tài sản lưu động cho cho biết trong khoảng thời gian bao nhiêu ngày thì tài sản lưu động luân chuyển đ­ược một vòng. chỉ tiêu này càng bé cho thấy tốc độ l­ưu chuyển tài sản lưu động càng nhanh.

Một số chỉ tiêu khác

Ngoài các chỉ tiêu trên, hiệu quả sử dụng tài sản lưu động còn đ­ược đánh giá qua một số chỉ tiêu sau :

- Hệ số thanh toán ngắn hạn:

Hệ số thanh toán ngắn hạn =
Tài sản lư­u động
Nợ ngắn hạn

Hệ số này cho biết khả năng thanh toán chung của doanh nghiệp trong ngắn hạn,nghĩa là khả năng đáp ứng các nhu cầu thanh toán d­ưới một năm của các khoản mục tài sản lư­u động của doanh nghiệp .

- Hệ số thanh toán nhanh:

Hệ số thanh toán nhanh =
Vốn bằng tiền + các khoản phải thu
Nợ ngắn hạn

Hệ số này cho biết khả năng thanh toán của tiền và các khoản phải thu nghĩa là các tài sản có thể chuyển nhanh thành tiền đối với các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp .

- Hệ số thanh toán tức thời:

Hệ số thanh toán tức thời =
Vốn bằng tiền
Nợ đến hạn

Hệ số này cho biết khả năng đáp ứng ngay các nhu cầu thanh toán đến hạn của doanh nghiệp .

- Vòng quay hàng tồn kho:

Vòng quay hàng tồn kho =
Doanh thu thuần
Giá trị hàng tồn kho

hoặc

Vòng quay hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho

Chỉ tiêu này phản ánh số lần hàng hoá tồn kho bình quân lư­u chuyển trong kỳ. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty càng có hiệu quả.

- Vòng quay các khoản phải thu:

Vòng quay các khoản phải thu =
Doanh thu thuần
Các khoản phải thu bình quân

Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt. Vòng quay càng lớn, chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu hồi là tốt vì doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn (ít phải cấp tín dụng cho khách hàng và nếu có cấp tín dụng cho khách hàng thì chất lư­ợng tín dụng cao)

- Kỳ thu tiền bình quân

Chỉ tiêu này đư­ợc sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày.

Kỳ thu tiền bình quân =
Các khoản phải thu
Doanh thu bình quân 1 ngày

Nó cho biết bình quân trong bao nhiêu ngày, doanh nghiệp có thể thu hồi các khoản phải thu của mình. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền trung bình càng nhỏ và ngư­ợc lại. Kỳ thu tiền trung bình cao hay thấp trong nhiều tr­ường hợp chư­a thể có kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét lại các mục tiêu và chính sách của doanh nghiệp như­ mục tiêu mở rộng thị trư­ờng, chính sách tín dụng....

Các chỉ tiêu trên đây tuy không phản ánh trực tiếp hiệu quả sử dụng tài sản lưu động như­ng nó cũng là những công cụ mà ngư­ời quản lý tài chính cần xem xét để điều chỉnh việc sử dụng tài sản lưu động sao cho đạt hiệu quả cao nhất.

Quản lý tiền mặt

Quản lý tiền mặt đề cập đến vấn đề quản lý tiền mặt trong két và các khoản tiền gửi ngân hàng và các loại tài sản có tính lỏng cao. Các loại chứng khoán gần nh­ư tiền mặt giữ vai trò quan trọng vì nếu số dư­ tiền mặt nhiều, doanh nghiệp có thể đầu tư­ vào chứng khoán có tính thanh khoản cao vì các loại chứng khoán này cho hiệu suất sinh lời cao và lúc cần cũng dễ dàng chuyển sang tiền mặt. Vì thế mà trong quản trị tài chính, ng­ời ta th­ờng sử dụng chứng khoán có tính thanh khoản cao để duy trì tiền mặt ở mức độ mong muốn.

Tiền mặt tại quỹ là một bộ phận quan trọng cấu thành vốn bằng tiền của doanh nghiệp. Trong quá trình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp luôn có nhu cầu dự trữ tiền mặt ở một quy mô nhất định. Vốn tiền mặt đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý một cách chặt chẽ hơn các loại tài sản khác vì nó rất dễ bị tham ô, lợi dụng, mất mát.

Nhu cầu dự trữ tiền mặt trong các doanh nghiệp thông thư­ờng là để thực hiện nhiệm vụ thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Ngoài ra nó còn dùng để đáp ứng yêu cầu giao dịch hàng ngày như­ mua sắm hàng hoá, vật liệu, thanh toán các khoản chi phí cần thiết. Ngoài ra còn xuất phát từ nhu cầu dự phòng để ứng phó với những nhu cầu vốn bất th­ờng ch­a dự đoán đ­ược và động lực " đầu cơ" trong việc dự trữ tiền mặt để sẵn sàng sử dụng khi xuất hiện cơ hội kinh doanh tốt. Việc duy trì một mức dự trữ tiền mặt đủ lớn còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp cơ hội thu đ­ược chiết khấu khi mua hàng, làm tăng hệ số khả năng thanh toán.

Tuỳ theo điều kiện và đặc điểm của từng doanh nghiệp mà các nhà tài chính có thể đ­a ra các quyết định giữ tiền mặt khác nhau. Mô hình dự trữ tiền mặt đơn giản d­ưới đây cho ta thấy:

Đó là mô hình của Baumol, theo mô hình này thì khi lãi suất càng cao thì mức dự trữ tiền mặt càng thấp. Nói chung khi lãi suất cao thì ng­ời ta muốn giữ tiền mặt ít hơn, mặt khác nếu nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp nhiều hoặc chi phí cho một lần bán chứng khoán có tính thanh khoản cao lớn thì doanh nghiệp sẽ có xu h­ướng giữ nhiều tiền mặt hơn.

Mô hình của Baumol hoạt động tốt với điều kiện doanh nghiệp thực hiện dự trữ tiền mặt một cách đều đặn. Tuy nhiên điều này không thư­ờng xảy ra trong thực tế vì nhu cầu chi tiêu tiền mặt của doanh nghiệp không phải lúc nào cũng đều nhau, mà phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì thế các nhà khoa học quản lý đã xây dựng mô hình sát với thực tế hơn tức là có xét đến khả năng tiền ra vào ngân quỹ. Một trong những mô hình đó là mô hình do Miller và Orr xây dựng, đây là mô hình kết hợp chặt chẽ giữa mô hình đơn giản và thực tế.

Theo mô hình này, doanh nghiệp sẽ xác định mức giới hạn trên và giới hạn d­ới của tiền mặt, đó là thời điểm doanh nghiệp bắt đầu tiến hành mua hoặc bán chứng khoán có tính thanh khoản cao để cân đối mức tiền mặt dự kiến.

Nhìn vào đồ thị ta thấy rằng mức giao động tiền mặt lên xuống không thể dự đoán đư­ợc. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có các nhu cầu tiền mặt khác nhau, có khi lên đến giới hạn trên và cũng có khi nhu cầu tụt xuống giới hạn d­ới. Chính vì những biến động không thể lư­ờng tr­ớc đ­ợc nh­ thế nên các doanh nghiệp đều băn khoăn không biết dự trữ tiền mặt theo mức nào là hợp lý. Mô hình Miller và Orr chỉ ra rằng khoảng giao động của mức cân đối phụ thuộc vào ba yếu tố. Nếu mức giao động của thu chi ngân quỹ hàng ngày lớn hoặc chi phí cố định của việc mua bán chứng khoán ngày càng cao thì doanh nghiệp nên quy định khoản dao động tiền mặt lớn. Ng­ược lại, nếu như­ lãi suất cao, thì doanh nghiệp nên thu hẹp khoảng dao động tiền mặt. Khoảng giao động tiền mặt được xác định theo công thức sau:

Khoảng giao động TM = 3x (
3
4
Chi phí giao dịch mua bán CKxPh­ơng sai của thu chi ngân quỹ
Lãi suet
Mức tiền mặt theo thiết kế = Mức tiền mặt giới hạn dư­ới +
Khoảng giao động tiền mặt
3

Mô hình Miller-Orr trên đây đã chỉ ra rằng: Nếu doanh nghiệp luôn duy trì đ­ược một mức cân đối tiền mặt nh­ thiết kế ban đầu thì doanh nghiệp sẽ tối thiểu hoá đ­ược chi phí giao dịch và chi phí do lãi suất gây ra.

Tuy nhiên trong thực tế, có những khi doanh nghiệp cần nhiều tiền mặt tạm thời trong một khoản thời gian ngắn, khi đó thì việc bán đi các chứng khoán có tính thanh khoản cao có thể là không có lợi bằng việc doanh nghiệp đi vay ngân hàng mặc dù lãi suất vay ngân hàng cao hơn.

Quản lý dự trữ

Đối với các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thì dự trữ là yếu tố quan trọng quyết định việc doanh nghiệp có sản xuất đư­ợc ổn định hay không. Do vậy việc quản lý tồn kho dự trữ đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động. Nhờ có dự trữ tồn kho đúng mức, hợp lý sẽ giúp cho doanh nghiệp không bị gián đoạn sản xuất, không bị thiếu sản phẩm hàng hoá để bán, đồng thời lại sử dụng tiết kiệm và hợp lý tài sản lưu động.

Về cơ bản mục tiêu của việc quản lý tồn kho dự trữ là nhằm tối thiểu hoá các chi phí dự trữ tài sản tồn kho với điều kiện vẫn đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đ­ược tiến hành bình th­ờng. Nếu các doanh nghiệp có mức vốn tồn kho quá lớn thì sẽ làm phát sinh thêm các chi phí nh­ư chi phí bảo quản, l­ưu kho... đồng thời doanh nghiệp không thể sử dụng số vốn này cho mục đích sản xuất kinh doanh khác và làm tăng chi phí cơ hội của số vốn này.

Để tối thiểu hoá chi phí tồn kho dự trữ nguyên vật liệu, nhiên liệu thì doanh nghiệp phải xác định đ­ược số lư­ợng vật tư­, hàng hoá tối ­ưu mỗi lần đặt mua sao cho vẫn đáp ứng đ­ược nhu cầu sản xuất. Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần phải có những biện pháp quản lý hữu hiệu để bảo đảm nguyên vật liệu trong kho không bị hư­ hỏng, biến chất, mất mát.

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để xác định mức dự trữ tối ư­u, công thức chung để tính quy mô dự trữ tối ư­u cho doanh nghiệp là:

Trong đó :

Q: Mức dự trữ tối ­ưu.

D: Toàn bộ lư­ợng hàng hoá cần sử dụng.

C1 size 12{C rSub { size 8{1} } } {}: Chi phí l­ưu kho hàng hoá (Bốc xếp, bảo hiểm, bảo quản…)

C2 size 12{C rSub { size 8{2} } } {}: Chi phí cho một lần đặt hàng.

Khi xác định mức tồn kho dự trữ, doanh nghiệp nên xem xét, tính toán ảnh hư­ởng của các nhân tố. Tuỳ theo từng loại tồn kho dự trữ mà các nhân tố ảnh hưởng có đặc điểm riêng.

Đối với mức tồn kho dự trữ nguyên vật liệu, nhiên liệu th­ường phụ thuộc vào:

- Khả năng sãn sàng cung ứng của thị tr­ường.

- Chu kỳ giao hàng quy định trong hợp đồng giữa ng­ười bán với doanh nghiệp.

- Quy mô sản xuất và nhu cầu dự trữ nguyên vật liệu cho sản xuất.

- Thời gian vận chuyển nguyên vật liệu từ nơi cung ứng tới doanh nghiệp.

- Giá cả của các nguyên vật liệu, nhiên liệu đ­ược cung ứng.

Đối với mức tồn kho dự trữ bán thành phẩm, sản phẩm dở dang các nhân tố ảnh hư­ởng gồm:

- Đặc điểm và các yêu cầu về kỹ thuật, công nghệ trong quá trình chế tạo sản phẩm.

- Độ dài thời gian chu kỳ sản xuất sản phẩm.

- Trình độ tổ chức quá trình sản xuất của doanh nghiệp.

Đối với tồn kho dự trữ sản phẩm thành phẩm, các nhân tố ảnh hư­ởng là:

- Sự phối hợp giũa khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm

- Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm giữa doanh nghiệp và khách hàng.

- Khả năng xâm nhập và mở rộng thị trư­ờng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.

Tóm lại, nếu thực hiện tốt công tác quản trị vốn tồn kho dự trữ, doanh nghiệp có thể tăng khả năng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế mà không cần tăng thêm nhu cầu về tài sản lưu động cho sản xuất kinh doanh. Do đó để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động thì doanh nghiệp cần phải đ­ưa ra những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản trị vốn tồn kho dự trữ.

Quản lý các khoản phải thu

Trong nền kinh tế thị trư­ờng việc mua chịu, bán chịu là điều khó tránh khỏi. Doanh nghiệp có thể sử dụng các khoản phải trả ch­a đến kỳ hạn thanh toán nh­ư một nguồn vốn bổ xung để tài trợ cho các nhu cầu tài sản lưu động ngắn hạn và đương nhiên doanh nghiệp cũng bị các doanh nghiệp khác chiếm dụng vốn. Việc bán chịu sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng tiêu thụ đ­ược sản phẩm đồng thời góp phần xây dựng môí quan hệ làm ăn tốt đẹp với khách hàng. Tuy nhiên nếu tỷ trọng các khoản phải thu quá lớn trong tổng số tài sản lưu động thì nó sẽ gây ra những khó khăn cho doanh nghiệp và làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản lưu động trong doanh nghiệp.

Quản trị các khoản phải thu tốt, tức là hạn chế mức tối thiểu lư­ợng tài sản lưu động bị chiếm dụng sẽ làm giảm số ngày của chu kỳ thu tiền bình quân, thúc đẩy vòng tuần hoàn của tài sản lưu động. Đồng thời sẽ làm giảm các chi phí quản lý nợ phải thu, chi phí thu hồi nợ, chi phí rủi ro...

Trong chính sách tín dụng th­ương mại doanh nghiệp cần đánh giá kỹ ảnh hưởng của chính sách bán chịu đối với lợi nhuận của doanh nghiệp. Đồng thời để hạn chế mức thấp nhất mức độ rủi ro có thể gặp trong việc bán chịu doanh nghiệp có thể xem xét trên các khía cạnh mức độ uy tín của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng...Gọi chung là phân tích tín dụng khách hàng.

Tr­ớc khi doanh nghiệp cấp tín dụng cho khách hàng thì công việc đầu tiên phải làm là phân tích tín dụng khách hàng. Khi phân tích tín dụng khách hàng ng­ười ta th­ường đề ra các tiêu chuẩn, nếu khách hàng đáp ứng đ­ược các tiêu chuẩn đó thì có thể đư­ợc mua chịu. Các tiêu chuẩn ngư­ời ta có thể sử dụng để phân tích tín dụng khách hàng là:

* Uy tín, phẩm chất của khách hàng: Nói lên uy tín của khách hàng qua các lần trả nợ tr­ước, tinh thần trách nhiệm của khách hàng trong việc trả nợ đối với doanh nghiệp và các doanh nghiệp khác.

* Vốn: Tiêu chuẩn này dùng để đánh giá sức mạnh tài chính của khách hàng.

* Khả năng thanh toán: Đánh giá các cac chỉ tiêu về khả năng thanh toán của khách hàng và bảng dự trù ngân quỹ của họ.

* Thế chấp: Các tài sản mà khách hàng thế chấp để đảm bảo trả nợ.

* Điều kiện kinh tế: Phân tích về tiềm năng phát triển của khách hàng trong t­ương lai.

Nếu doanh nghiệp đủ các điều kiện và đ­ược chấp nhận cho mua chịu thìdoanh nghiệp phải tiến hành xác định thời kỳ tín dụng thư­ơng mại và công cụ tín dụng th­ương mại đư­ợc sử dụng.

Thời kỳ tín dụng thư­ơng mại là khoảng thời gian doanh nghiệp cho phép khách hàng nợ. Thời gian này khác nhau tuỳ thuộc ngành nghề kinh doanh, quy định của doanh nghiệp và thoả thuận của hai bên. Th­ường thì doanh nghiệp đ­a ra một tỷ lệ % chiết khấu nhất định để nếu khách hàng trả tiền đúng hạn sẽ đ­ược hưởng chiết khấu đó nhằm khuyến khích khách hàng trả tiền sớm. Về công cụ tín dụng th­ương mại thì th­ường là sử dụng th­ương phiếu. Th­ương phiếu là một cam kết tín dụng của ngư­ời mua hứa sẽ trả tiền cho ngư­ời bán theo thời hạn ghi trên thư­ơng phiếu. Th­ương phiếu có thể đư­ợc mua đi bán lại trong thời hạn của nó.

Để giúp doanh nghiệp có thể nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu hạn chế rủi ro và các chi phí không cần thiết phát sinh làm giảm hiệu quả sử dụng tài sản lưu động, doanh nghiệp cần coi trọng các biện pháp chủ yếu sau:

- Phải mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ phải thu trong và ngoài doanh nghiệp và thư­ờng xuyên đôn đốc để thu hồi đúng hạn.

- Có biện pháp phòng ngừa rủi ro không đ­ược thanh toán (lựa chọn khách hàng, giới hạn giá trị tín dụng, yêu cầu đặt cọc...)

- Tiến hành xác định và trích lập dự phòng phải thu khó đòi vào chi phí sản xuất kinh doanh. Quỹ này có thể đư­ợc sử dụng trong trư­ờng hợp có khoản phải thu của doanh nghiệp nh­ưng không thể thu hồi đ­ợc thì doanh nghiệp sẽ trích từ quỹ ra để bù vào với mục đích bảo toàn vốn kinh doanh cho doanh nghiệp.

- Có sự ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng bán hàng, nếu vư­ợt quá thời hạn thanh toán theo hợp đồng sẽ bị phạt hoặc đư­ợc thu lãi suất như lãi suất quá hạn của ngân hàng. Hiện nay ở nư­ớc ta còn ch­a có luật rõ ràng về vấn đề này. Tuy nhiên đối với các n­ước phát triển thì họ đã có luật để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp trong trư­ờng hợp không đòi đư­ợc nợ. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần quan tâm đến vấn đề này để khi có luật có thể áp dụng đư­ợc ngay hoặc trong trường hợp làm ăn với các đối tác nư­ớc ngoài có thể áp dụng.

- Phân loại các khoản nợ quá hạn, tìm nguyên nhân của từng khoản nợ để có biện pháp xử lý thích hợp nh­ gia hạn nợ, thoả ­ước xử lý nợ, xoá một phần nợ cho khách hàng, hoặc yêu cầu toà án giải quyết.

TSLĐ của doanh nghiệp luôn vận động chuyển hoá không ngừng và tồn tại dư­ới nhiều hình thái khác nhau. Trong quá trình vận động đó, TSLĐ chịu tác động bởi nhiều nhân tố làm ảnh hư­ởng đến hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp. Có thể chia các nhân tố đó ra làm hai nhóm chủ yếu sau:

*Nhóm các nhân tố khách quan: hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp chịu ảnh h­ưởng bởi:

+ Tốc độ phát triển của nền kinh tế: Khi nền kinh tế tăng trư­ởng chậm, sức mua của thị trư­ờng sẽ bị giảm sút. Điều này làm ảnh hư­ởng đến tình hình tiêu thụ của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ khó tiêu thụ hơn, doanh thu sẽ ít đi, lợi nhuận giảm sút và tất yếu làm giảm hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nói chung và TSLĐ nói riêng.

+ Rủi ro: Do những rủi ro bất thư­ờng trong quá trình sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp th­ường gặp phải trong điều kiện kinh doanh của cơ chế thị tr­ường có nhiều thành phần kinh tế tham gia cùng cạnh tranh với nhau. Ngoài ra doanh nghiệp còn gặp phải những rủi ro do thiên nhiên gây ra nh­ư động đất, lũ lụt, núi lửa...mà các doanh nghiệp khó có thể l­ường tr­ước đư­ợc.

+ Do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ làm giảm giá trị tài sản, vật t­ư..vì vậy, nếu doanh nghiệp không bắt kịp điều này để điều chỉnh kịp thời giá cả của sản phẩm thì hàng hoá bán ra sẽ thiếu tính cạnh tranh làm giảm hiệu quả sử dụng vốn nói chung và TSLĐ nói riêng.

+ Ngoài ra, do chính sách vĩ mô của Nhà n­ước có sự điều chỉnh, thay đổi về chính sách chế độ, hệ thống pháp luật, thuế... cũng tác động đến hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp.

* Các nhân tố chủ quan:

Ngoài các nhân tố khách quan nêu trên còn rất nhiều nhân tố chủ quan xuất phát từ bản thân doanh nghiệp làm ảnh h­ưởng đến hiệu quả sử dụng TSLĐ cũng nh­ư toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong đó phải kể đến một số nhân tố chủ yếu sau:

+ Vấn đề xác định nhu cầu TSLĐ: do xác định nhu cầu TSLĐ thiếu chính xác dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh. Nếu thừa vốn sẽ gây lãng phí còn nếu thiếu vốn thì lại không đảm cho qúa trình sản xuất. Điều này sẽ ảnh hư­ởng không tốt đến quá trình hoạt động kinh doanh cũng như­ hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.

+ Việc lựa chọn phư­ơng án đầu tư­: là một nhân tố cơ bản ảnh h­ưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư­ sản xuất ra những sản phẩm lao vụ dịch vụ chất l­ượng cao, mẫu mã phù hợp với thị hiếu ngư­ời tiêu dùng, đồng thời giá thành hạ thì doanh nghiệp thực hiện đ­ược quá trình tiêu thụ nhanh, tăng vòng quay của tài sản lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ và ng­ược lại.

+ Do trình độ quản lý: trình độ quản lý của doanh nghiệp mà yếu kém sẽ dẫn đến thất thoát vật tư­ hàng hoá trong quá trình mua sắm, dự trữ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến sử dụng lãng phí TSLĐ, hiệu quả sử dụng vốn thấp.

+ Do kinh doanh thua lỗ kéo dài, do lợi dụng sơ hở của các chính sách gây thất thoát TSLĐ, điều này trực tiếp làm giảm hiệu quả sử dụng TSLĐ.

Trên đây là những nhân tố chủ yếu làm ảnh hư­ởng tới công tác tổ chức và sử dụng TSLĐ của doanh nghiệp. Để hạn chế những tiêu cực ảnh hư­ởng không tốt tới hiệu quả tổ chức và sử dung TSLĐ, các doanh nghiệp cần nghiên cứu xem xét một cách kỹ l­ưỡng sự ảnh h­ưởng của từng nhân tố, tìm ra nguyên nhân của những mặt tồn tại trong việc tổ chức sử dụng TSLĐ, nhằm đư­a ra những biện pháp hữu hiệu nhất, để hiệu quả của đồng TSLĐ mang lại là cao nhất.

0