Hệ thống kế hoạch hóa phân theo thời gian trong nền kinh tế quốc dân
Hệ thống kế hoạch hoá là một hệ thống các loại hình thức kế hoạch phát triển, đó là hệ thống các công cụ điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Trong hệ thống kế hoạch hoá, mỗi loại hình kế hoạch khác nhau có vai trò khác nhau và chúng có thể ...
Hệ thống kế hoạch hoá là một hệ thống các loại hình thức kế hoạch phát triển, đó là hệ thống các công cụ điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Trong hệ thống kế hoạch hoá, mỗi loại hình kế hoạch khác nhau có vai trò khác nhau và chúng có thể được phân loại theo nhiều góc độ khác nhau.
Nếu xem xét hệ thông kế hoạch hoá theo góc độ nội dung thì hệ thống kế hoạch hoá bao gồm các bộ phận cấu thành như: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội; Quy hoạch phát triển; kế hoạch phát triển và các chương trình dự án phát triển.
- Trong đó chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hệ thống các phân tích, đánh giávà lựa chọn về quan điểm mục tiêu tổng quát, định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản, trong đó bao gồm cácchính sách về cơ cấu, cơ chế vận hành hệ thống kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra trong một khoảng thời gian dài.
- Quy hoạch phát triển là sự thể hiện của chiến lược phát triển trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Quy hoạch phát triển thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến lược về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ môvề tổ chức không gian để chủ động hướng tới mục tiêu đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững trong tương lai.
- Kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân, nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo từng thời kỳ bằng hệ thống các mục tiêu chỉ tiêuvà chỉ tiêu biện pháp định hướngpt và hệ thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.
- Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội được xem như là một công cụ triển khai thực hiện các kế hoạch phát triển nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc về kinh tế và xã hội. Là một phương pháp kế hoạch hoá được áp dụng nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế phương pháp kế hoạch hoá quản lý theo các chương trình dự án mà trọng tâm là các chương trình quốc gia cũng được áp dụng rộng rãi từ những năm 1992.
Tóm lại khi xem xét hệ thống kế hoạch hoá dưới góc độ nội dung ta thấy được rằng kế hoạch hoá là một quá trình liên tiếp nhau, bổ trợ nhau và thể hiện mối quan hệ định hướng và thực hiện giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống kế hoạch hoá.
Khi chúng ta xem xét hệ thống kế hoạch hoá ở góc độ thời gian thì hệ thống kế hoạch hoá lại được phân chia thành 3 loại kế hoạch chủ yếu là: Kế hoạch dài hạn; kế hoạch trung hạn và kế hoạch ngắn hạn.
Khi nói kế hoạch dài hạn ta có thể hiểu đó là những chiến lược phát triển kinh tế xã hội có khoảng thời gian từ 10 đến 20 năm. Và ngoài chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm, 20 năm chúng ta còn có thể có các chiến lược phát triển kinh tế xã hội có thời gian dài từ 20 đến 25 năm và chúng được gọi là “tầm nhìn”. Để tạo thuận lợi cho việc xây dựng và bố trí các chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho10 năm, “tầm nhìn thường có nội dung tổng quát hơn, linh động hơn hay mềm hơn và có tính chất định tính hơn so với chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Điều quan trọng của việc phân định giữa chiến lược phát triển kinh tế xã hội và tầm nhìn là phải thống nhất về mục tiêu định hướng của chúng sao cho những bước đi trước “thuận” và tạo tiền đề cho bước đi sau đồng thời có khả năng hiệu chỉnh khi cần thiết.
Một kế hoạch dài hạn thường có nội dung để giải đáp những câu hỏi: Chúng ta đang đứng ở đâu? Muốn đi đến đâu? Đi bằng cách nào? Và làm thế nào để biết được chúng ta đã đi đến đó? Để trả lời mỗi một câu hỏi trên chúng ta phải tiến hành những công việc cụ thể như:
- Nhận dạng thực trạng của nền kinh tế : Quá trình nhận dạng thực trạng phải được đánh giá toàn diện và trong một khoảng thời gian dài tương đương với thời kỳ của chiến lược phát triển sẽ xây dựng. Nó là cơ sở để rút ra kết luận đúng đắn cho câu hỏi: Chúng ta đang đứng ở đâu?.
- Xây dựng các quan điểm phát triển, đó là những tư tưởng chủ đạo thể hiện tính định hướng của các kế hoạch dài hạn. Việc xác định các quan điểm chủ dạo có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra các bước ngoặt của con đường phát triển , nó tạo động lực cơ bản xuyên xuốtquá trình phát triển của đất nước.
- Xây dựng hệ thống mục tiêu, các mục tiêu chủ yếu là mục tiêu tổng quát, chủ yếu tập trung vào các vấn đề nâng cao đời sống xã hội của các tầng lớp dân cư, thay đổi bộ mặt đất nước, tạo thế vững chắc cho đất nước, phản ánh những biến đổi quan trọng của nền kinh tế.
- Xây dựng hệ thống chính sách và biện pháp. Đây là thể hiện sự hướng dẫn về cách thức thực hiện các mục tiêu đề ra. Nó bao gồm các chính sách và biện pháp về cơ cấu và cơ chế vận hành hwj thống kinh tế –xã hội, các chính sách về bồi dưỡng , khai thác, huy động, phân bổ và sử dụng hợp lý cá nguồn lực phát triển.
- Kế hoạch trung hạn là những kế hoạch có khoảng thời gian từ 3 đến 10 năm. Ở một số nước trên thế giới như nước Pháp, khi phân chia theo thời gian thì hình thức duy nhất của kế hoạch là kế hoạch 5 năm, nước Đức thường xây dựng kế hoạch trung hạn 5 năm, ở Malaysia có kế hoạch trung hạn 5 năm, kế hoạch trung hạn 3 năm, ở Việt Nam kế hoạch trung hạn thường là kế hoạch 5 năm.
- Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 5 năm) là sự cụ thể hoá các chiến lược phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Kế hoạch trung hạn xác định các mục tiêu chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ kế hoạch và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Trong hệ thống kế hoạch phát triển thì kế hoạch 5 năm là công cụ chính sách định hướng còn kế hoạch hàng năm là công cụ thực hiện. Đặc biệt nếu thực hiện kế hoạch 5 năm theo hình thức “cuốn chiếu” thì kế hoạch hàng năm thực chất sẽ là một phần định hướng của kế hoạch 5 năm. Vì vậy, vai trò hay chức năng đầu tiên của kế hoạch năm là cụ thể hoá kế hoạch 5 năm, phân đoạn kế hoạch 5 năm để từng bước thực hiện kế hoạch 5 năm. Quy mô và sự cấu thành của kế hoạch năm vì thế chủ yếu đươc quyết định bởi ngân sách, các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm, các tiến trình trong nghiên cứu khả thi và những dự án triển khai trong thời kỳ trước. Bên cạnh đó kế hoạch năm còn là công cụ để điều chỉnh kế hoạch 5 năm có tính đến đặc điểm của từng năm. Ngoài ra, kế hoạch hàng năm còn đóng vai trò độc lập quan trọng, nó có thể bao hàm các nhiệm vụ, các chỉ tiêu chưa được dự kiến trong kế hoạch 5 năm, bảo đảm tính linh hoạt, nhạy bén của kế hoạch hoá nói chung.