Hao mòn- khấu hao tài sản cố định
TSCĐ trong quá trình tham gia vào sản xuất, vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu nhưng trong thực tế do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau khách quan và chủ quan làm cho TSCĐ của doanh nghiệp bị giảm dần về tính năng, tác ...
TSCĐ trong quá trình tham gia vào sản xuất, vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu nhưng trong thực tế do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân khác nhau khách quan và chủ quan làm cho TSCĐ của doanh nghiệp bị giảm dần về tính năng, tác dụng, công năng, công suất và do đó giảm dần giá trị của TSCĐ, đó chính là hao mòn TSCĐ.
TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: hao mòn hữu hình (HMHH) và hao mòn vô hình (HMVH) .
- Hao mòn hữu hình.
HMHH của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất, về thời gian sử dụng và giá trị của TSCĐ trong quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể nhận thấy được từ sự thay đổi trạng thái ban đầu ở các bộ phận, chi tiết TSCĐ dưới tác dụng của ma sát, tải trọng, nhiệt độ, hoá chất,...Về giá trị sử dụng, đó là sự giảm sút về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu trong quá trình sản xuất và cuối cùng không còn sử dụng dược nữa. Trong một mức độ nhất định muốn khôi phục lại giá trị sử dụng của nó phải tiến hành sửa chữa, thay thế các chi tiết. Về mặt giá trị, đó là sự giảm dần giá trị của TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm sản xuất. Đối với các TSCĐ vô hình, HMHH chỉ thể hiện ở mặt giá trị.
Tốc độ và mức độ HMHH của TSCĐ trong nhiều giai đoạn khác nhau của việc sử dụng chúng cũng tuỳ thuộc vào những điều kiện khác nhau như chất lượng của việc thiết kế và xây dựng TSCĐ, loại và chất lượng vật liệu dùng để chế tạo ra TSCĐ đó, chế độ bảo quản, sử dụng TSCĐ, trình độ tay nghề của công nhân sử dụng TSCĐ đó, tốc độ và tính chất kịp thời của việc sửa chữa TSCĐ, điều kiện bảo quản, diều kiện tự nhiên như nhiệt độ, độ ẩm không khí...
Việc xác định rõ nguyên nhân của những HMHH TSCĐ sẽ giúp cho các doanh nghiệp đưa ra những biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn chế nó.
- Hao mòn vô hình.
Đồng thời với sự HMHH của TSCĐ lại có sự hao mòn vô hình (HMVH). HMVH của TSCĐ là hao mòn thuần tuý về mặt giá trị của TSCĐ. HMVH của TSCĐ có thể do nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất là, sự mất giá trị của TSCĐ do việc tái sản xuất TSCĐ cùng loại mới rẻ hơn. Hình thức HMVH này là kết quả của việc tiết kiệm hao phí lao động xã hội hình thành nên khi xây dựng TSCĐ.
Thứ hai là, HMVH là sự mất giá trị của TSCĐ do năng suất thấp hơn và hiệu quả kinh tế lại ít hơn khi sử dụng so với TSCĐ mới sáng tạo hiện đại hơn về mặt kỹ thuật. Ngoài ra, TSCĐ có thể bị mất giá trị hoàn toàn do chấm dứt chu kỳ sống của sản phẩm, tất yếu dẫn đến những TSCĐ sử dụng để chế tạo cũng bị lạc hậu, mất tác dụng. Hoặc trong các trường hợp máy móc thiết bị, quy trình công nghệ...còn nằm trên dự án thiết kế, các bản dự thảo phát minh song đã trở nên lạc hậu vào thời điểm đó. điều này cho thấy HMVH không chỉ xảy ra đối với TSCĐ hữu hình mà còn với cả các TSCĐ vô hình.
Như vậy không những HMHH của TSCĐ làm cho mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao có sự thay đổi mà ngay cả HMVH của TSCĐ cũng làm cho mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao có sự thay đổi nữa.
Nguyên nhân cơ bản của HMVH là sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Do đó biện pháp có hiệu quả nhất để khắc phục HMVH là doanh nghiệp phải coi trọng đổi mới khoa học kỹ thuật công nghệ, sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật. Điều này có ý nghĩa quyết định trong việc tạo ra các lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường.
KHTSCĐ là việc chuyển dịch dần giá trị hao mòn của TSCĐ vào chi phí sản xuất trong kỳ theo phương pháp tính toán thích hợp. Nói cách khác, KHTSCĐ là việc tính toán và phân bổ một cách có hệ thống nguyên giá của TSCĐ vào chi phí kinh doanh theo thời gian sử dụng của TSCĐ và đảm bảo phù hợp với lợi ích thu được từ tài sản đó trong quá trình sử dụng.
Khi tiến hành KHTSCĐ là nhằm tích luỹ vốn để thực hiện quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Vì vậy, việc lập nên quỹ KHTSCĐ là rất có ý nghĩa. Đó là nguồn tài chính quan trọng để giúp doanh nghiệp thường xuyên thực hiện việc đổi mới từng bộ phận, nâng cấp, cải tiến và đổi mới toàn bộ TSCĐ. Theo quy định hiện nay của nhà nước về việc quản lý vốn cố định của các doanh nghiệp thì khi chưa có nhu cầu đầu tư, mua sắm, thay thế TSCĐ các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao để đáp ứng các nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo nguyên tắc hoàn trả.
Việc tính toán chính xác mức khấu hao có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó phải phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ và đảm bảo thu hồi đầy đủ giá trị vốn đầu tư ban đầu. Thực hiện tốt điều này sẽ đảm bảo tính chính xác của giá thành sản phẩm, hạn chế ảnh hưởng của HMVH và góp phần vào việc bảo toàn và tăng vốn cố định. Đồng thời việc tính toán đầy đủ, chính xác mức khấu hao vào chi phí sản xuất thì việc hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới bảo đảm chính xác để đo lường chính xác thu nhập của doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp muốn tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao và giá thành sản phẩm thì biện pháp quan trọng nhất là phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng các TSCĐ.
Phạm vi TSCĐ phải tính khấu hao.
Theo quy định hiện hành của Bộ trưởng Bộ tài chính thì mọi TSCĐ của doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh doanh đều phải tính khấu hao, mức tính KHTSCĐ được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Những TSCĐ không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì không phải tính khấu hao, bao gồm:
- TSCĐ không cần dùng, chưa cần dùng đã có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép doanh nghiệp được đưa vào cất giữ, bảo quản, điều động cho doanh nghiệp khác.
- TSCĐ thuộc dự trữ Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý, giữ hộ.
- TSCĐ phục vụ cho các hoạt động phúc lợi trong doanh nghiệp như nhà trẻ, câu lạc bộ..., những TSCĐ phục vụ nhu cầu chung toàn xã hội, không phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của riêng doanh nghiệp như đê đập, cầu cống.... mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý.
- TSCĐ khác không tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp không được tính khấu hao đối với những TSCĐ đã khấu hao hết nhưng vẫn được sử dụng vào mục đích kinh doanh.
Đối với những TSCĐ chưa khấu hao hết đã hỏng, doanh nghiệp phải xác định nguyên nhân, quy trách nhiệm đền bù, đòi bồi thường thiệt hại.... và xử lý tổn thất theo các quy định hiện hành.
Đối với những TSCĐ đang chờ quyết định thanh lý, tính từ thời điểm TSCĐ ngừng tham gia vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thôi tính khấu hao.
Quy định về thời gian tính, thôi tính khấu hao.
Việc tính hoặc thôi tính KHTSCĐ được thực hiện theo nguyên tắc tròn tháng. Những TSCĐ tăng trong tháng thì tính khấu hao từ tháng sau, còn đối với những TSCĐ giảm trong tháng thì tháng sau thôi tính khấu hao.
Căn cứ để tính khấu hao TSCĐ.
Theo quy định hiện hành mức tính KHTSCĐ trong doanh nghiệp phải căn cứ vào thời gian sử dụng và nguyên giá của TSCĐ đó. Vì vậy, việc xác định thời gian sử dụng và nguyên giá TSCĐ phải tuân thủ các tiêu chuẩn do Nhà nước quy định.
- Thời gian sử dụng TSCĐ là thời gian doanh nghiệp dự kiến sử dụng TSCĐ vào hoạt động kinh doanh trong điều kiện bình thường phù hợp với các thông số kinh tế – kỹ thuật của TSCĐ và các yếu tố khác có liên quan đến sự hoạt động của TSCĐ. Khi xác định thời gian sử dụng của TSCĐ, doanh nghiệp phải căn cứ vào các tiêu chuẩn sau:
+ Tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ theo thiết kế (khoảng thời gian có thể sử dụng TSCĐ được tính toán theo các thông số kỹ thuật khi chế tạo).
+ Hiện trạng của TSCĐ (thời gian TSCĐ đã qua sử dụng), thế hệ TSCĐ, tình trạng thực tế của tài sản....).
+ Tuổi thọ kinh tế của TSCĐ.
Dựa vào những tiêu chuẩn trên làm căn cứ để doanh nghiệp tính toán, dự kiến thời gian sử dụng của TSCĐ sao cho đạt hiệu quả đồng thời loại trừ được những ảnh hưởng bất lợi của HMVH.
Riêng đối những TSCĐ còn mới (chưa qua sử dụng), TSCĐ đã qua sử dụng mà giá trị thực tế còn từ 90% trở lên (so với giá bán của TSCĐ cùng loại hoặc của loại TSCĐ tương đương trên thị trường), doanh nghiệp cần căn cứ vào khung thời gian sử dụng TSCĐ do Nhà nước quy định để xây dựng thời gian sử dụng TSCĐ sao cho phù hợp.
Đối với TSCĐVH doanh nghiệp được tự phép xác định thời gian sử dụng trong khoảng thời gian từ 5 năm đến 40 năm.
Đối với TSCĐ thuê tài chính, thời gian sử dụng chính là thời gian thuê TSCĐ ghi trong hợp đồng thuê.
- Xác định nguyên giá TSCĐ:
Nguyên giá TSCĐ là toàn các chi phí thực tế đã chi ra để có TSCĐ cho tới khi đưa TSCĐ đi vào hoạt động bình thường như giá mua thực tế, các chi phí vận chuyển, bốc dỡ; chi phí lắp đặt, chạy thử ; lãi tiền vay đầu tư cho TSCĐ khi chưa bàn giao và đưa TSCĐ vào sử dụng; thuế trước bạ (nếu có)…
+ Đối với TSCĐHH việc xác định nguyên giá phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể:
• TSCĐ loại mua sắm: Nguyên giá TSCĐ loại mua sắm (kể cả mua mới và cũ) bao gồm: giá thực tế phải trả, lãi tiền vay đầu tư cho TSCĐ khi đưa TSCĐ vào sử dụng, các chi phí vận chuyển, bốc dỡ, các chi phí sửa chữa, tân trang trước khi đưa TSCĐ vào sử dụng, chi phí lắp đặt, chạy thử, thuế và lệ phí trước bạ (nếu có) ...
• TSCĐ loại đầu tư xây dựng: Nguyên giá tài sản loại này (cả tự làm và thuê ngoài) là giá quyết toán công trình xây dựng theo quy định tại điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành, các chi phí khác có liên quan và lệ phí trước bạ (nếu có).
• TSCĐ loại được cấp, được điều chuyển đến....: Nguyên giá bao gồm giá trị còn lại trên sổ sách kế toán của TSCĐ ở các đơn vị cấp, đơn vị chuyển ... hoặc giá trị thực tế của các hợp đồng giao nhận và các chi phí tân trang, chi phí vận chuyển , bốc dỡ, sửa chữa, lắp đặt, chạy thử, lệ phí trước bạ (nếu có) ... mà bên nhận tài sản phải chi ra trước khi đưa TSCĐ vào sử dụng.
Riêng đối với TSCĐ điều chuyển giữa các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc trong doanh nghiệp là nguyên giá phản ánh ở đơn vị điều chuyển phù hợp với bộ hồ sơ của TSCĐ đó. Đơn vị nhận TSCĐ căn cứ vào nguyên giá, số khấu hao luỹ kế, giá trị còn lại trên sổ kế toán và bộ hồ sơ của TSCĐ và phản ánh vào sổ kế toán. Các chi phí liên quan đến việc điều chuyển TSCĐ giữa các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc không hạch toán tăng nguyên giá TSCĐ mà hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
• Tài sản cố định được cho, được biếu, được tặng, nhận vốn góp liên doanh, nhận lại vốn góp, do phát hiện thừa… Nguyên giá bao gồm : giá trị theo đánh giá thực tế của hội đồng giao nhận, các chi phí tân trang, sửa chữa TSCĐ các chi phí vận chuyển, bốc dỡ, lắp đặt, chạy thử, lệ phí trước bạ (nếu có)... mà bên nhận phải chi ra trước khi đưa vào sử dụng.
+ Đối TSCĐVH: Trong từng trường hợp như sau:
• Chi phí về đất sử dụng: Là toàn bộ chi phí thực tế đã chi ra có liên quan trực tiếp tới đất sử dụng bao gồm: tiền chi ra để có quyền sử dụng đất, chi phí để giải phóng mặt bằng, lệ phí trước bạ (nếu có) .
Trường hợp doanh nghiệp trả tiền thuê đất hàng năm hoặc định kỳ thì các chi phí này được phân bổ dần vào chi phí kinh doanh trong các kỳ, không hạch toán vào nguyên giá TSCĐ.
• Chi phí thành lập doanh nghiệp: Là các chi phí thực tế có liên quan trực tiếp tới việc chuẩn bị cho sự khai sinh ra doanh nghiệp và được nhiều người tham gia thành lập doanh nghiệp đồng ý coi như một phần vốn góp của mỗi người và được ghi vào vốn điều lệ của doanh nghiệp, bao gồm: các chi phí cho công tác nghiên cứu, thăm dò, lập dự án đầu tư thành lập doanh nghiệp, chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí thẩm định dự án, họp thành lập ...
• Chi phí nghiên cứu, phát triển: Là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp chi ra để thực hiện các công việc nghiên cứu, thăm dò, xây dựng các kế hoạch đầu tư dài hạn... nhằm đem lại lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp.
• Chi phí về bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả, mua bản quyền tác giả, nhận chuyển giao công nghệ … là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra cho các công trình nghiên cứu (bao gồm cả chi cho sản xuất thử nghiệm, chi cho công tác kiểm nghiệm, nghiệm thu của Nhà nước) được Nhà nước cấp bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả, hoặc các chi phí để doanh nghiệp mua lại bản quyền tác giả, bản quyền nhãn hiệu, chi cho việc nhận chuyển giao công nghệ từ các tổ chức và cá nhân… mà các chi phí này có tác dụng phục vụ trực tiếp hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
• Chi phí về lợi thế kinh doanh: là khoản chi cho phần chênh lệch doanh nghiệp phải trả thêm (chênh lệch phải trả thêm = giá mua – giá trị của tài sản theo đánh giá thực tế) ngoài các giá trị tài sản theo đánh giá thực tế (TSCĐ khi doanh nghiệp đi mua, nhận sáp nhập, hợp nhất với một doanh nghiệp khác). Lợi thế này được hình thành bởi ưu thế về vị trị kinh doanh, về danh tiếng và uy tín đối với bạn hàng, về trình độ tay nghề của đội ngũ lao động, về điều hành, tổ chức của ban quản lý doanh nghiệp đó...
+ Đối với TSCĐ thuê tài chính: Nguyên giá TSCĐ thuê tài chính phản ánh ở đơn vị thuê như đơn vị chủ sở hữu tài sản bao gồm: giá mua thực tế; các chi phí vận chuyển, bốc dỡ; các chi phí sửa chữa tân trang trước khi đưa TSCĐ vào sử dụng, chi phí lắp đặt, chạy thử, thuế và lệ phí trước bạ (nếu có)…
Phần chênh lệch giữa tiền thuê TSCĐ phải trả cho đơn vị cho thuê và nguyên giá TSCĐ đó được hạch toán vào chi phí kinh doanh phù hợp với thời hạn của hợp đồng thuê tài chính.
Nguyên giá TSCĐ chỉ được thay đổi trong những trường hợp sau:
1. Đánh giá lại giá trị TSCĐ.
2. Nâng cấp TSCĐ.
3. Tháo dỡ một hay một số bộ phận của TSCĐ.
Khi thay đổi nguyên giá TSCĐ, doanh nghiệp phải lập biên bản ghi rõ các căn cứ thay đổi và xác định lại các chỉ tiêu nguyên giá, giá trị còn lại trên sổ kế toán, số khấu hao luỹ kế của TSCĐ và tiến hành hạch toán theo các quy định hiện hành.
Việc quản lý, sử dụng và trích KHTSCĐ phải dựa trên nguyên tắc đánh giá theo nguyên giá, số khấu hao luỹ kế và giá trị còn lại trên sổ kế toán của TSCĐ.
Giá trị còn lại trên = Nguyên giá TSCĐ - Số khấu hao
sổ kế toán của TSCĐ luỹ kế của TSCĐ
Quy định về quản lý số khấu hao luỹ kế của TSCĐ
- Đối với số khấu hao luỹ kế của TSCĐ được mua sắm, đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách, coi như ngân sách cấp và bằng nguồn đầu tư phát triển của doanh nghiệp, theo quy định hiện hành: Các doanh nghiệp được sử dụng toàn bộ số khấu hao luỹ kế của TSCĐ để thực hiện tái đầu tư, thay thế, đổi mới TSCĐ, mọi hoạt động đầu tư, xây dựng phải thực hiện theo đúng các quy định về quản lý đầu tư xây dựng. Khi chưa có nhu cầu tái đầu tư TSCĐ, doanh nghiệp có quyền sử dụng linh hoạt số khấu hao luỹ kế phục vụ nhu cầu kinh doanh theo nguyên tắc hoàn trả.
- Các Tổng Công ty Nhà nước khi có nhu cầu được quyền huy động số khấu hao luỹ kế của TSCĐ của các đơn vị thành viên nhưng phải tuân theo các quy định về chế độ quản lý tài chính hiện hành của Nhà nước.
- Đối với những TSCĐ được đầu tư mua sắm xây dựng bằng nguồn vốn vay, về nguyên tắc doanh nghiệp phải sử dụng số khấu hao thu được để trả vốn và lãi vay. Tuy nhiên khi chưa đến thời hạn trả nợ, doanh nghiệp cũng có thể sử dụng tạm thời vào các mục đích kinh doanh khác để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp.
- Riêng đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh doanh khác nhau như công ty cổ phần, công ty TNHH... sẽ do chủ tịch hội đồng quản trị hoặc giám đốc căn cứ vào tình hình sản xuất kinh doanh để quyết định việc sử dụng quỹ khấu hao đạt hiệu quả cao nhất.
Phương pháp KHTSCĐ trong doanh nghiệp.
Có rất nhiều phương pháp khác nhau để tính KHTSCĐ trong các doanh nghiệp. Mỗi phương pháp có những ưu nhược điểm riêng. Việc lựa chọn đúng đắn phương pháp KHTSCĐ có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản ý vốn cố định trong các doanh nghiệp. Thông thường có các phương pháp khấu hao cơ bản sau:
* Phương pháp khấu hao bình quân (còn gọi là phương pháp khấu hao theo đường thẳng).
Đây là phương pháp khấu hao đơn giản nhất, được sử dụng phổ biến để tính khấu hao các loại TSCĐ trong doanh nghiệp. Theo phương pháp này, tỷ lệ và mức khấu hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời gian sử dụng TSCĐ. Mức khấu hao hàng năm và tỷ lệ khấu hao hàng năm được xác định theo công thức sau:
NG
MKH =
T
MKH 1
TKH = x 100% hay TKH = x100%
NG T
Các ký hiệu:
MKH: Mức tính khấu hao trung bình hàng năm.
TKH: Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm.
NG: Nguyên giá của TSCĐ.
T: Thời gian sử dụng của TSCĐ (năm).
Nếu doanh nghiệp trích cho từng tháng thì lấy số khấu hao phải trích cả năm chia cho 12 tháng.
Tuy nhiên trong thực tế phương pháp khấu hao bình quân có thể sử dụng với nhiều sự biến đổi nhất định cho phù hợp với đặc điểm sử dụng của TSCĐ trong từng ngành, từng doanh nghiệp, có thể nêu ra một số trường hợp sau:
• Trong một số ngành chủ yếu như xây dựng cơ bản, giao thông vận tải, ngoài việc trích khấu hao theo thời gian sử dụng TSCĐ, người ta cũng có thể khấu hao theo số ca máy hoạt động, theo khối lượng vận chuyển.
• Tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao được xác định theo công thức trên là trong điều kiện sử dụng bình thường. Trong thực tế nếu được sử dụng trong điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn hơn mức bình thường thì doanh nghiệp có thể điều chỉnh lại tỷ lệ khấu hao và mức khấu hao bình quân hàng năm cho phù hợp bằng cách điều chỉnh thời hạn khấu hao từ số năm sử dụng tối đa đến số năm sử dụng tối thiểu đối với từng loại TSCĐ hoặc nhân tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm với hệ số điều chỉnh.
Tkđ = Tkh x Hđ
Trong đó:
Tkđ: Tỷ lệ khấu hao điều chỉnh.
Tkh: Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm.
Hđ: Hệ số điều chỉnh (Hđ > 1 hoặc Hđ < 1).
• Tỷ lệ khấu hao bình quân hàng năm có thể tính cho từng TSCĐ cá biệt ( khấu hao bình quân cá biệt) hoặc trích cho từng nhóm, từng loại TSCĐ hoặc toàn bộ các nhóm, loại TSCĐ của doanh nghiệp (khấu hao bình quân tổng hợp). Trên thực tế việc tính khấu hao theo từng TSCĐ cá biệt sẽ làm tăng khối lượng công tác tính toán và quản lý chi phí khấu hao. Vì thế doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp khấu hao bình quân tổng hợp trong đó mức khấu hao trung bình hàng năm được tính cho từng nhóm, từng loại TSCĐ.
Nhìn chung, phương pháp khấu hao bình quân được sử dụng phổ biến là do ưu điểm của nó. Đây là phương pháp tính toán đơn giản, dễ hiểu. Mức khấu hao được tính vào giá thành sản phẩm sẽ ổn định và như vậy sẽ tạo điều kiện ổn định giá thành sản phẩm. Tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp, trong doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao bình quân tổng hợp cho tất cả các loại TSCĐ của doanh nghiệp thì sẽ giảm được khối lượng công tác tính toán, thuận lợi cho việc lập kế hoạch KHTSCĐ của doanh nghiệp. Tuy nhiên nhược điểm của phương pháp này là không phản ánh chính xác mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ và đồng thời giá thành sản phẩm trong các thời kỳ sử dụng TSCĐ sẽ không giống nhau. Hơn nữa, do tính bình quân nên khả năng thu hồi vốn đầu tư chậm và như vậy không thể hạn chế ảnh hưởng bất lợi của HMVH đối với TSCĐ trong doanh nghiệp.
* Phương pháp khấu hao giảm dần.
Người ta thường sử dụng phương pháp khấu hao giảm dần để khắc phục những nhược điểm của phương pháp khấu hao bình quân. Phương pháp khấu hao này được sử dụng nhằm mục đích đẩy nhanh mức KHTSCĐ trong năm đầu sử dụng và giảm dần mức khấu hao theo thời hạn sử dụng. Đây là phương pháp rất thuận lợi cho các donh nghiệp mới thành lập vì những năm đầu họ muốn quay vòng vốn nhanh để thực hiện phát triển sản xuất.
Phương pháp khấu hao giảm dần có hai cách tính toán tỷ lệ và mức khấu hao hàng năm, đó là phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần hoặc khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng:
• Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần.
Theo phương pháp này thì số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách lấy giá trị còn lại của TSCĐ theo thời gian sử dụng nhân với tỷ lệ khấu hao không đổi. Như vậy, mức và tỷ lệ khấu hao theo thời gian sử dụng sẽ giảm dần. Có thể tính mức khấu hao hàng năm theo thời hạn sử dụng như sau:
MKHi = Gcđi x TKH
Trong đó:
MKHi: Mức khấu hao ở năm thứ i.
Gcđi: Giá trị còn lại của TSCĐ vào đầu năm thứ i.
TKH: Tỷ lệ khấu hao hàng năm (theo phương pháp số dư).
• Phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng.
Theo phương pháp này số tiền khấu hao được tính bằng cách nhân giá trị ban đầu của TSCĐ với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao này được xác định bằng cách lấy số năm sử dụng còn lại chia cho tổng số thứ tự năm sử dụng. Công thức tính toán như sau:
MKHi = NG x TKHi
2 x ( T- t +1 )
TKH =
T x ( T+1 )
Trong đó:
MKH: Mức khấu hao hàng năm.
NG: Nguyên giá của TSCĐ.
TKH: Tỷ lệ khấu hao theo năm sử dụng.
T: Thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ.
t: Thứ tự năm cần tính tỷ lệ khấu hao.
Phương pháp khấu hao giảm dần có những ưu điểm cơ bản đó là phản ánh chính xác hơn mức hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư mua sắm TSCĐ trong những năm đầu sử dụng, hạn chế được những ảnh hưởng bất lợi của HMVH. Tuy nhiên phương pháp này cũng có nhược điểm đó là việc tính toán mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm sẽ phức tạp hơn, số tiền trích khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng thời hạn sử dụng TSCĐ cũng chưa đủ bù đắp toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu vào TSCĐ của doanh nghiệp.
* Phương pháp khấu hao giảm dần kết hợp với khấu hao bình quân.
Để khắc phục nhược điểm của phương pháp khấu hao bình quân cũng như phương pháp khấu hao giảm dần, người ta thường sử dụng kết hợp hai phương pháp trên. đặc điểm của phương pháp này là trong năm đầu sử dụng người ta sử dụng phương pháp khấu hao giảm dần, còn những năm cuối thì thực hiện phương pháp khấu hao bình quân. Mức khấu hao bình quân trong những năm cuối của thời gian sử dụng TSCĐ sẽ bằng tổng giá trị còn lại của TSCĐ chia cho số năm sử dụng còn lại.
Theo quy định hiện nay của Nhà nước thì TSCĐ trong các doanh nghiệp ( nhà nước ) được trích khấu hao theo phương pháp đường thẳng, nội dung như sau:
- Căn cứ vào các quy định sẽ xác định thời gian sử dụng của TSCĐ.
- Xác định mức trích khấu hao trung bình hàng năm cho TSCĐ theo công thức dưới đây:
Thời gian sử dụng hay nguyên giá TSCĐ thay đổi, doanh nghiệp phải xác định lại mức khấu hao TSCĐ trung bình của TSCĐ bằng cách lấy giá trị còn lại trên sổ sách kế toán chia cho thời gian sử dụng xác định lại hoặc thời gian sử dụng còn lại (được xác định là chênh lệch giữa thời gian sử dụng đã đăng ký và thời gian đã sử dụng) của TSCĐ.
Mức trích khấu hao cho năm cuối cùng của thời gian sử dụng TSCĐ được xác định là hiệu số giữa nguyên giá TSCĐ và khấu hao luỹ kế đã thực hiện của TSCĐ đó.
Như vậy, việc nghiên cứu các phương pháp KHTSCĐ sẽ giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn phương pháp khấu hao cho phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, để đảm bảo cho việc thu hồi vốn, bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp.