25/05/2018, 07:58

Hạch toán tổng hợp tiêu thụ hàng hoá

Tiêu thụ hàng hoá là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị của hàng hoá, tức là chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ trạng thái của vật chất tiền tệ và hình thành kết quả của bán hàng, trong đó doanh nghiệp giao hàng cho khách hàng và khách ...

Tiêu thụ hàng hoá là quá trình trao đổi để thực hiện giá trị của hàng hoá, tức là chuyển hoá vốn của doanh nghiệp từ trạng thái của vật chất tiền tệ và hình thành kết quả của bán hàng, trong đó doanh nghiệp giao hàng cho khách hàng và khách hàng trả tiền cho doanh nghiệp theo giá thoả thuận. Thông qua quá trình tiêu thụ, nhu cầu của người sử dụng một phần nào đó được thoả mãn và giá trị của hàng hoá đó được thực hiện .

Quá trình tiêu thụ cơ bản được chia làm hai giai đoạn :

- Giai đoạn thứ nhất: Đơn vị bán xuất giao hàng cho đơn vị mua thông qua hợp đồng kinh tế đã được ký. Đây là quá trình vận động của hàng hoá nhưng chưa xác định được kết quả của việc bán hàng.

- Giai đoạn thứ hai: Khi khách hàng nhận được hàng theo đúng chủng loại trên hợp đồng kinh tế, khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền. Đến đây quá trình bán hàng kết thúc, hàng hoá được coi là tiêu thụ và hình thành kết quả kinh doanh .

Những đặc điểm của quá trình tiêu thụ :

- Có sự thỏa thuận giữa người mua, người bán về số lượng, chất lượng chủng loại của hàng hoá trên cơ sở hợp đồng kinh tế.

- Có sự thay đổi quyền sở hữu, quyền sử dụng hàng hoá từ người bán sang người mua thông qua quá trình bán hàng.

- Người bán giao cho người mua một lượng hàng hoá và nhận được tiền hoặc được chấp nhận thanh toán. Khoản tiền này được gọi là doanh thu bán hàng, được dùng để bù đắp các khoản chi phí đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh và hình thành nên kết quả của việc tiêu thụ hàng hoá trong kỳ của doanh nghiệp.

Tiêu thụ hàng hoá bao gồm :

- Tiêu thụ ra ngoài: Là việc bán hàng cho các đơn vị khác hoặc cá nhân trong và ngoài doanh nghiệp .

- Tiêu thụ nội bộ: Là việc bán hàng giữa các đơn vị thành viên cùng trong tổng công ty, tập đoàn ...

Khi tiêu thụ hàng hoá được thực hiện thì doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước theo luật định tính trên khối lượng sản phẩm tiêu thụ ra ngoài doanh nghiệp hoặc tiêu thụ nội bộ .

Giá bán đơn vị sản phẩm là giá bán thực tế ghi trên hoá đơn GTGT, là căn cứ để tính doanh thu bán hàng thực hiện được trong kỳ.

Có 4 phương thức tiêu thụ hàng hoá chủ yếu.

Tiêu thụ trực tiếp là phương thức giao hàng cho người mua trực tiếp tại kho (hoặc trực tiếp tại phân xưởng không qua kho) của doanh nghiệp. Hàng hoá khi bàn giao cho khách hàng được khách hàng trả tiền hay chấp nhận thanh toán, số hàng hoá này chính thức coi là tiêu thụ thì khi đó doanh nghiệp bán hàng mất quyền sở hữu về số hàng hoá đó. Phương thức này bao gồm bán buôn, bán lẻ:

- Bán buôn:

Bán buôn là quá trình bán hàng cho các đơn vị sản xuất các đơn vị kinh doanh thương mại để tiếp tục đưa vào quá trình sản xuất, gia công chế biến tạo ra sản phẩm mới hoặc tiếp tục được chuyển bán. Do đó đối tượng của bán buôn rất đa dạng và phong phú có thể là cơ sở sản xuất, đơn vị kinh doanh thương mại trong nước và ngoài nước hoặc các công ty thương mại tư nhân.

Đặc trưng của phương thức này là kết thúc nghiệp vụ bán hàng, hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông, chưa đi vào lĩnh vực tiêu dùng. Hàng bán theo phương thức này thường là với khối lượng lớn và nhiều hình thức thanh toán. Do đó muốn quản lý tốt thì phải lập chứng từ cho từng lần bán .

Khi thực hiện bán hàng, bên mua sẽ có người đến nhận hàng trực tiếp tại kho của doanh nghiệp. Khi người nhận đã nhận đủ số hàng và ký xác nhận trên chứng từ bán hàng thì số hàng đó không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nữa mà được coi là hàng đã bán. Khi bên mua trả tiền hoặc chấp nhận thanh toán thì doanh nghiệp hạch toán vào doanh thu và doanh nghiệp phải thực hiện nghĩa vụ Nhà nước.

Chứng từ kế toán sử dụng là hoá đơn GTGT hoặc phiếu xuất kho do doanh nghiệp lập, chứng từ này được lập thành 3 liên: 1 liên giao cho người nhận hàng, 2 liên chuyển cho phòng kế toán để làm thủ tục thanh toán.

- Bán lẻ:

Theo hình thức này, hàng hoá được bán trực tiếp cho người tiêu dùng, bán lẻ là giai đoạn cuối cùng của quá trình vận động của hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Đối tượng của bán lẻ là mọi cá nhân trong và ngoài nước muốn có một giá trị sử dụng nào đó không phân biệt giai cấp, quốc tịch.

Đặc trưng của phương thức bán lẻ là kết thúc nghiệp vụ bán hàng thì sản phẩm rời khỏi lĩnh vực lưu thông đi vào lĩnh vực tiêu dùng giá trị sử dụng của sản phẩm được thực hiện. Hàng bán lẻ thường có khối lượng nhỏ, và thanh toán ngay và thường bằng tiền mặt nên thường ít lập chứng từ cho từng lần bán. Bán lẻ được chia làm 2 hình thức:

+.Bán lẻ thu hồi trực tiếp .

+ Bán lẻ thu hồi tập trung.

Căn cứ vào hợp đồng đã ký, đến ngày giao hàng, doanh nghiệp sẽ xuất kho để chuyển hàng cho bên mua bằng phương tiện của mình hoặc đi thuê ngoài đến địa điểm đã ghi trong hợp đồng, chi phí vận chuyển này do bên nào chịu tuỳ thuộc vào sự thoả thuận của hai bên và được ghi trong hợp đồng kinh tế. Hàng gửi đi vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, khi người mua thông báo đã được nhận hàng và chấp nhận thanh toán thì số hàng đó được coi là tiêu thụ, doanh nghiệp hạch toán vào doanh thu.

Chứng từ sử dụng trong trường hợp này là hoá đơn GTGT hoặc hoá đơn kiêm phiếu xuất kho do doanh nghiệp lập, chứng từ này được lập thành 4 liên: 1 liên gửi cho người mua, 2 liên gửi cho phòng kế toán để làm thủ tục thanh toán, 1 liên thủ kho giữ .

Hàng hoá gửi đại lý bán vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và chưa được coi là tiêu thụ. Doanh nghiệp chỉ được hạch toán vào doanh thu khi bên nhận đại lý thanh toán tiền hoặc chấp nhận thanh toán. Khi bán được hàng thì doanh nghiệp phải trả cho người nhận đại lý một khoản tiền gọi là hoa hồng. Khoản tiền này được coi như một phần chi phí bán hàng và được hạch toán vào tài khoản bán hàng .

Doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ mà không được trừ đi phần hoa hồng trả cho bên nhận đại lý.

* Các trường hợp hàng hoá gửi đi được coi là tiêu thụ .

- Hàng hoá bán xuất hiện trong phương thức bán hàng trực tiếp.

- Hàng hoá gửi bán chỉ được coi là tiêu thụ và hạch toán vào doanh thu hàng gửi bán trong các trường hợp sau :

+ Doanh nghiệp nhận được tiền do khách hàng trả.

+ Khách hàng đã nhận được hàng và chấp nhận thanh toán.

+ Khách hàng đã ứng trước số tiền mua hàng về số hàng sẽ chuyển đến.

+ Số hàng gửi bán áp dụng phương thức thanh toán theo kế hoạch thông qua ngân hàng.

Theo phương thức này, khi giao hàng cho người mua thì lượng hàng chuyển giao được coi là tiêu thụ và doanh nghiệp mất quyền sở hữu lượng hàng đó. Theo phương thức này người mua sẽ trả tiền làm nhiều lần theo hợp đồng ban đầu và giá bán bao giờ cũng cao hơn giá bán theo phương thức thông thường. Phần chênh lệch này chính là tiền lãi phát sinh do khách trả chậm, trả nhiều lần, số tiền lãi này được hạch toán vào tài khoản thu nhập của hoạt động tài chính. Doanh nghiệp bán hàng được phản ánh ngay tại thời điểm giao hàng cho khách hàng theo giá bán lẻ bình thường. Người mua sẽ thanh toán lần đầu tại thời điểm mua. Số tiền còn lại người mua chấp nhận thanh toán dần ở các kỳ tiếp theo và phải chịu một tỷ lệ lãi suất nhất định. Thông thường số tiền thanh toán ở các kỳ bằng nhau, trong đó một phần là doanh thu gốc một phần là lãi suất trả chậm.

Tiêu thụ nội bộ là việc mua bán sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ giữa các đơn vị chính với các đơn vị trực thuộc hay giữa các đơn vị trực thuộc với nhau trong cùng một công ty, tập đoàn, liên hiệp các xí nghiệp ...Ngoài ra, tiêu thụ nội bộ còn bao gồm các khoản sản phẩm, hàng hoá dịch vụ xuất biến, tăng, xuất trả lương, thưởng, xuất dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh.

Đánh giá hàng hoá theo giá vốn :

- Giá thành hàng hoá nhập kho được xác định phù hợp với từng nguồn nhập:

+ Hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất, chế tạo được đánh giá theo chi phí sản xuất, kinh doanh thực tế bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí sản xuất chung.

+ Hàng hoá thuê ngoài gia công, được đánh giá theo chi phí thực tế gia công gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp đem gia công. Chi phí thuê ngoài gia công và các chi phí khác liên quan trực tiếp đến quá trình gia công như chi phí vận chuyển, chi phí làm thủ tục xuất kho nguyên vật liệu đem gia công, nhập kho thành phẩm để hoàn thành gia công.

- Đối với hàng hoá xuất kho cũng phải được thể hiện theo giá vốn thực tế. Hàng hoá xuất kho cũng có thể theo những giá thực tế khác nhau ở từng thời điểm trong kỳ hạch toán, nên việc hạch toán xác định giá trị thực tế hàng hoá xuất kho có thể áp dụng một trong các phương pháp chủ yếu sau :

+ Phương pháp giá đơn vị bình quân:

Theo phương pháp này, giá thực tế vật liệu xuất dùng trong kỳ được tính theo giá bình quân ( bình quân cả kỳ dự trữ, bình quân cuối kỳ trước hoặc bình quân sau mỗi lần nhập).

Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ tuy đơn giản, dễ làm nhưng độ chính xác không cao. Hơn nữa, công việc tính toán dồn vào cuối tháng gây ảnh hưởng đến công tác quyết toán chung.

Phương pháp này mặc dầu quá đơn giản và phản ánh kịp thời tình hình biến động vật liệu trong kỳ tuy nhiên không chính xác vì không tính đến sự biến động của giá vật liệu kỳ này.

Phương pháp giá đơn vị bình quân sau mỗi lần nhập lại khắc phục nhược điểm của 2 phương pháp trên, vừa chính xác, vừa cập nhật. Nhược điểm của phương pháp này là tốn nhiều công sức, tính toán nhiều lần.

+ Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO).

Theo phương pháp này, giả thiết rằng số vật liệu nhập trước thì xuất trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế vật liệu mua trước sẽ được dùng làm giá thực tế vật liệu xuất trước và do vậy giá trị vật liệu tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số vật liệu mua vào sau cùng. Phương pháp này thích hợp trong trường hợp giá cả ổn định hoặc có xu hướng giảm.

+ Phương pháp nhập sau xuất trước (LIFO).

Phương pháp này giả định vật liệu mua sau cùng sẽ được xuất trước tiên, ngược lại với phương pháp nhập trước, xuất trước ở trên. Phương pháp nhập sau xuất trước thích hợp trong trường hợp lạm pháp.

+ Phương pháp trực tiếp:

Theo phương pháp này, vật liệu được xác định giá trị theo đơn chiếc hay từng lô và giữ nguyên từ lúc nhập vào cho đến lúc xuất dùng (trừ trường hợp điều chỉnh). Khi xuất vật liệu nào sẽ tính theo giá thực tế của vật liệu đó. Do vậy, phương pháp này còn có tên gọi là phương pháp đặc điểm riêng hay phương pháp giá trị thực tế đích danh và thường sử dụng với các loại vật liệu có giá trị cao và có tính tách biệt.

+ Phương pháp giá hạch toán:

Theo phương pháp này, toàn bộ vật liệu biến động trong kỳ được tính giá hạch toán (Giá kế hoạch hoặc một loại giá ổn định tronh kỳ). Cuối kỳ kế toán sẽ tiến hành điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế theo công thức:

Hệ số giá có thể tính cho từng loại, từng nhóm hoặc từng thứ vật liệu chủ yếu tuỳ thuộc vào yêu cầu và trình độ quản lý.

Việc đánh giá hàng hoá theo giá thực tế đôi khi không đáp ứng được yêu cầu kịp thời của công tác kế toán, bởi vì giá thành sản xuất thực tế thường cuối kỳ hạch toán mới xác định được mà công việc nhập xuất hàng hoá lại diễn ra thường xuyên vì vậy người ta còn sử dụng giá hạch toán.

Giá hạch toán là giá ổn định trong kỳ. Nó có thể là giá thành kế hoạch hoặc giá nhập kho thống nhất. Đánh giá hàng hoá theo giá hạch toán đến cuối kỳ phải tính chuyển giá hạch toán sang giá thực tế bằng cách:

Phương pháp này áp dụng với mọi loại hình doanh nghiệp nhưng thường là doanh nghiệp có loại quy mô lớn, khối lượng hàng hoá tiêu thụ nhiều, tình hình nhập xuất diễn ra thường xuyên, việc xác định giá hàng ngày khó khăn và ngay cả tronh trường hợp xác định được song tốn kém nhiều chi phí, không hiệu quả cho công tác kế toán. Phương pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng được hệ thống giá hạch toán khoa học, hợp lý.

Chứng từ và tài khoản kế toán sử dụng.

* Các chứng từ kế toán sử dụng.

- Hoá đơn GTGT.

- Hoá đơn bán hàng.

- Hoán đơn tự in, chứng từ đặc thù.

- Bảng kê bán lẻ.

- Giấy báo Có của ngân hàng, phiếu thu...

* Các tài khoản kế toán sử dụng.

- Tài khoản 155 - Thành phẩm: Tài khoản này được sử dụng để phản ánh giá trị hiện có, tình hình biến động của các loại thành phẩm nhập kho của doanh nghiệp theo giá thành thực tế (giá thành công xưởng thực tế)

Bên Nợ: Các Nghiệp vụ ghi tăng giá thành thực tế thành phẩm.

Bên Có: Các Nghiệp làm giảm giá thành thực tế thành phẩm.

Dư Nợ: Giá thành thực tế thành phẩm tồn kho.

- Tài khoản 157 - Hàng gửi bán: Tài khoản này dùng để phản ánh giá vốn hàng gửi bán, ký gửi, đại lý ( trị giá mua của hàng hoá; giá thành công xưởng của sản phẩm, dịch vụ ) chưa xác định là tiêu thụ. Tài khoản 157 được mở chi tiết theo từng loại sản phẩm dịch vụ, hàng hoá, từng lần gửi hàng, từ khi gửi đi cho đến khi được chấp nhận thanh toán.. .Nội dung ghi chép của tài khoản 157 như sau:

Bên Nợ: Tập hợp giá vốn sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã chuyển đi bán hoặc giao cho bên nhận đại lý, ký gửi nhưng chưa được chấp nhận thanh toán.

Bên Có: +Kết chuyển giá vốn thực tế sản phẩm, hàng hoá chuyển đi bán, gửi đại lý, ký gửi và giá thành dịch vụ đã được xác định là tiêu thụ.

+ Giá vốn sản phẩm hàng hoá không bán được đã thu hồi(bị người nhận đại lý, ký gửi trả lại) .

Số dư bên nợ: Giá vốn thực tế sản phẩm, hàng hoá đã gửi đi chưa được xác định là tiêu thụ.

- Tài khoản 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: Tài khoản này được dùng để phản ánh tổng số doanh thu bán hàng thực tế của doanh nghiệp và các khoản giảm trừ doanh thu. Từ đó xác định doanh thu thuần về tiêu thụ trong kỳ. Nội dung ghi chép của tài khoản 511 như sau:

Bên Nợ: + Số thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp phải nộp tính theo doanh thu bán hàng thực tế.

+ Các khoản giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại khi bán hàng và doanh thu của hàng bán bị trả lại

+ Kết chuyển doanh thu thuần vào tài khoản 911.

Bên Có: Phản ánh tổng số doanh thu tiêu thụ thực tế của doanh nghiệp trong kỳ.

Tài khoản 511 cuối kỳ không có số dư.

Tài khoản này được chi tiết thành 4 tài khoản cấp 2 dưới đây:

+ Tài khoản 5111 - Doanh thu bán hàng hoá.

+ Tài khoản 5112 - Doanh thu bán các thành phẩm.

+ Tài khoản 5112 - Doanh thu cung cấp dịch vụ.

+ Tài khoản 5114 - Doanh thu trợ cấp, trợ giá.

Khi phản ánh doanh thu bán hàng ở bên có tài khoản 511, cần phân biệt theo từng trường hợp sau :

+ Hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế, doanh thu bán hàng ghi theo giá bán chưa có thuế GTGT.

+ Hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp và hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, doanh thu bán hàng ghi theo giá thanh toán với người mua gồm cả thuế phải chịu.

- Tài khoản 512 - Doanh thu bán hàng nội bộ: Tài khoản này được dùng để phản ánh doanh thu của số hàng hoá, lao vụ, dịch vụ, sản phẩm tiêu thụ nội bộ giữa các xí nghiệp trực thuộc trong cùng một Tổng công ty, công ty tập đoàn...

Tài khoản512 cuối kỳ không có số dư và được mở chi tiết thành 3 tài khoản cấp 2:

+ Tài khoản 5121 - Doanh thu bán hàng hoá.

+ Tài khoản 5122 - Doanh thu bán sản phẩm.

+ Tài khoản 5123 - Doanh thu cung cấp dịch vụ.

(Nội dung phản ánh tương tự như tài khoản 511)

- Tài khoản 632 - Giá vốn hàng bán: Tài khoản này dùng để xác định giá vốn của hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ. Tài khoản 632 không có số dư và có thể được mở chi tiết theo từng mặt hàng, từng dịch vụ, từng thương vụ... tuỳ theo yêu cầu cung cấp thông tin và trình độ cán bộ kế toán cũng như phương tiện tính toán của từng doanh nghiệp. Riêng trong các doanh nghiệp thương mại, tài khoản 632 còn phản ánh cả phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ trong kỳ.

Nội dung ghi chép tài khoản 632 như sau:

Bên Nợ: + Tập hợp giá vốn của hàng đã tiêu thụ trong kỳ( trị giá mua của hàng hoá; giá thành thực tế của dịch vụ, sản phẩm).

+ Phí thu mua phân bổ cho hàng hoá tiêu thụ trong kỳ. Bên có: + Trị giá vốn của sản phẩm, hàng hoá đã bán bị người mua trả lại.

+ Kết chuyển trị giá vốn của sản phẩm, dịch vụ, hàng hoá đã tiêu thụ trong kỳ.

Ngoài ra trong quá trình hạch toan tiêu thụ hàng hoá kế toán còn phải sử dụng một số tài khoản sau: TK 333, TK 131, TK 521, Tk 531, TK 532, TK 111, TK 112...

Trình tự hạch toán

* Phương thức hạch toán bán buôn: Hạch toán theo sơ đồ sau.

(1) Xuất kho hàng hoá theo giá vốn.

(2) Tổng giá thanh toán có thuế GTGT.

* Phương thức bán lẻ: Hạch toán theo sơ đồ sau.

Chuyển hàng xuống cửa hàng bán lẻ.

Giá vốn hàng bán được xác định là tiêu thụ.

Tổng giá thanh toán có thuế GTGT.

* Phương thức tiêu thụ hàng hoá theo phương thức chuyển hàng chờ chấp nhận: Hạch toán theo sơ đồ.

  • Xuất kho hàng hoá theo gửi đi bán.
  • (2) Giá vốn hàng gửi bán được chấp nhận là tiêu thụ.
  • (3) Tổng giá thanh toán có thuế GTGT.

* Phương thức bán hàng trả góp:

  • Doanh thu theo giá bán thu tiền ngay (không kể thuế GTGT).
  • Thuế GTGT phải nộp tính trên giá bán thu tiền ngay.
  • Lợi tức trả chậm.
  • Số tiền người mua trả lần đầu.
  • Tổng số tiền còn phải thu của người mua.
  • Thu tiền của người mua các kỳ sau.

* Phương thức bán hàng qua các đại lý. (ký gửi)

  • Xuất kho hàng hoá gửi bán.
  • (2a) Giá vốn hàng hoá được xác định là tiêu thụ.
  • (2b) Tổng giá thanh toán, thuế GTGT phải nộp,
  • hoa hồng cho bên nhận đại lý.
  • Thuế GTGT tính trên hoa hồng (nếu có).

- Đối với bên nhận đại lý.

Các tài khoản kể toán sử dụng.

- Tài khoản 155 - Thành phẩm

Bên Nợ: Trị giá thành phẩm tồn kho cuối kỳ.

Bên Có: Kết chuyển trị giá thành phẩm tồn kho đầu kỳ.

Dư Nợ: Trị giá thành phẩm tồn kho tại thời điểm kiểm kê.

- Tài khoản 157 - Hàng gửi bán:

Bên Nợ: Trị giá hàng gửi bán cuối kỳ.

Bên Có: Kết chuyển trị giá hàng gửi bán đầu kỳ.

Dư nợ: Trị giá hàng gửi bán chưa bán được tại thời điểm kiểm kê.

- Tài khoản 631 - Giá thành

Bên Nợ: Kết chuyển trị giá thành phẩm dở dang đầu kỳ.

Bên Có: Kết chuyển trị giá thành phẩm dở dang cuối kỳ.

Tài khoản này cuối kỳ không có số dư.

- Tài khoản 632 - Giá vốn hàng bán

Bên Nợ: - Giá vốn hàng bán chưa tiêu thụ đầu kỳ.

- Tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ sản xuất hoàn thành trong kỳ.

Bên Có: - Kết chuyển giá vốn hàng bán chưa tiêu thụ cuối kỳ.

- Kết chuyển giá vốn hàng bán chưa tiêu thụ trong kỳ.

Tài khoản này cuối kỳ không có số dư.

- Ngoài ra kế toán còn sử dụng các tài khoản: TK 511, TK 512, TK 521, TK 531, TK 532, TK 154 ...

b. Phương pháp hạch toán

  • Kết chuyển trị giá hàng tồn kho cuối kỳ và hàng gửi bán chưa được tiêu thụ.
  • Kết chuyển trị giá hàng tồn kho đầu kỳ và hàng gửi bán chưa được tiêu thụ.
  • Trị giá sản phẩm dở dang cuối kỳ.
  • Trị giá sản phẩm dở dang đầu kỳ.
  • Kết chuyển giá thành sản phẩm sản xuất trong kỳ
  • Kết chuyển giá vốn hàng bán trong kỳ.
  • Kết chuyển các khoản giảm trừ.
  • Kết chuyển doanh thu thuần để xác định kết quả kinh doanh.
  • Phản ánh hàng hoá được coi là tiêu thụ.

Chiết khấu thương mại

- Nội dung: Về thực chất, chiết khấu thương mại được coi là một khoản chi phí cho những khách hàng mua hàng hoá với số lượng lớn, thanh toán trước thời hạn thoả thuận... nhằm mục đích khuyến khích khách hàng mua hàng cho doanh nghiệp.

- Tài khoản sử dụng:

Tài khoản 521 - Chiết khấu thương mại: Sử dụng để theo dõi toàn bộ các khoản chiết khấu thương mại chấp nhận cho khách hàng trên giá bán đã thoả thuận về lượng hàng hoá, sản phẩm, dịch vụ đã tiêu thụ.

Bên Nợ: Tập hợp các khoản chiết khấu thương mại (bớt giá, hồi khấu) chấp thuận cho người mua trong kỳ trong kỳ.

Bên Có: Kết chuyển toàn bộ chiết khấu thương mại vào bên nợ tài khoản 511,512.

Cuối kỳ không có số dư và được chi tiết thành 3 tiểu khoản:

+ TK 5211 - Chiết khấu hàng hoá.

+ TK 5212 - Chiết khấu thành phẩm.

+ TK 5213 - Chiết khấu dịch vụ.

  • Trình tự hạch toán:

Hàng bán bị trả lại.

- Nội dung: là những hàng hoá đã được coi là tiêu thụ nhưng bị khách hàng trả lại do không phù hợp với yêu cầu của khách.

- Tài khoản sử dụng.

Tài khoản 531 - Hàng bán bị trả lại: Tài khoản này dùng để phản ánh doanh thu của số sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ bị khách hàng trả lại do không đúng quy cách, phẩm chất hoặc do vi phạm hợp đồng kinh tế...

Nội dung ghi chép của tài khoản 531 như sau:

Bên Nợ: Tập hợp doanh thu của hàng bán bị trả lại chấp nhận cho người mua trong kỳ (đã trả lại tiền cho người mua hoặc tính trừ vào nợ phải thu).

Bên Có: Kết chuyển số doanh thu của hàng bán bị trả lại.

Tài khoản 531 cuối kỳ không có số dư.

  • Trình tự hạch toán.
  • Phản ánh giá vốn của hàng bán bị trả lại nhập kho.
  • Phản ánh hàng bán bị trả lại (Với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ)
  • Phản ánh hàng bán bị trả lại (Với doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, hay hàng không chịu thuế GTGT).
  • Cuối kỳ kết chuyển điều chỉnh giảm doanh thu.

Giảm giá hàng bán.

- Nội dung: Giản gián hàng bán là những khoản giảm giá, bớt giá, hồi khấu cho bên mua vì những lý do như hàng bán bị kém phẩm chất, khách hàng mua hàng với số lượng lớn...

- Tài khoản sử dụng.

Tài khoản 532 - Giảm giá hàng bán: Tài khoản này dùng để phản ánh khoản giảm giá cho khách hàng tính trên giá bán thoả thuận.

Nội dung ghi chép của tài khoản 532 như sau:

Bên Nợ: Tập hợp các khoản giảm giá hàng bán chấp thuận cho người mua trong kỳ.

Bên Có: Kết chuyển khoản giảm giá sang

Tài khoản 532 cuối kỳ không có số dư.

- Trình tự hạch toán:

0