Đường truyền
Khá i n iệ m Trên một mạng máy tính, các dữ liệu được truyền trên một môi trường truyền dẫn ( transmission media ), nó là phương tiện vật lý cho phép truyền tải tín hiệu giữa các ...
- Khá i n iệ m
Trên một mạng máy tính, các dữ liệu được truyền trên một môi trường truyền dẫn (transmission media), nó là phương tiện vật lý cho phép truyền tải tín hiệu giữa các thiết bị. Có hai loại phương tiện truyền dẫn chủ yếu:
- Hữu tuyến (bounded media)
- Vô tuyến (boundless media)
Thông thường hệ thống mạng sử dụng hai loại tín hiệu là: digital và analog
Băng thông của đường truyền
Băng thông (bandwidth): được xác định bằng tổng lượng thông tin có thể truyền dẫn trên đường truyền tại một thời điểm. Băng thông là một số xác định, bị giới hạn bởi phương tiện truyền dẫn, kỹ thuật truyền dẫn và thiết bị mạng được sử dụng. Băng thông là một trong những thông số dùng để phân tích độ hiệu quả của đường mạng. Đơn vị của băng thông:
- Bps (Bits per second-số bit trong một giây): đây là đơn vị cơ bản của băng thông.
- KBps (Kilobits per second): 1 KBps=103 bps=1000 Bps
- MBps (Megabits per second): 1 MBps = 103 KBps
- GBps (Gigabits per second): 1 GBps = 103 MBps
- TBps (Terabits persecond): 1 TBps = 103 GBPS.
Thông lượng (Throughput): lượng thông tin thực sự được truyền dẫn trên thiết bị tại một thời điểm.
Các yếu tố ảnh hưởng đến đường truyền
Trong mỗi môi trường truyền dẫn thì khả năng truyền tải tín hiệu sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, những yếu tố gọi chung là nhiễu. Có thể kể đến một số loại nhiễu cơ bản như:
- Nhiễu điện từ (Electromagneticinterference-EMI): bao gồm các nhiễu điện từ bên ngoài làm biến dạng tín hiệu trong một phương tiện truyền dẫn.
- Nhiễu xuyên kênh (crosstalk): hai dây dẫn đặt kề nhau làm nhiễu lẫn nhau.
Hình 4.1 – Mô phỏng trường hợp nhiễu xuyên kênh (crosstalk)
- Môi trường thời tiết cũng ảnh hưởng khá lớn đến sự truyền dẫn của mạng không dây, bề mặt của đường dẫn sợi quang cùng các khớp nối cũng ảnh hưởng đến truyền dẫn quang học.
Các loại kết nối Mạng phổ biến
- Mạng điện thoại công cộng:
Điểm cốt yếu trong việc kết nối mạng WAN là hướng đến các dịch vụ bạn muốn sử dụng ở các điểm liên lạc. Chẳng hạn nếu bạn muốn liên lạc giữa Hà Nội và Moscow, chúng ta sẽ chỉ định các dịch vụ như nhau giữa các điểm truy cập. Mạng điện thoại công cộng đáp ứng một cách rộng khắp cho dịch vụ kết nối mạng diện rộng.
Mạng điện thoại công cộng thường có hai loại dịch vụ chung:
- Cung cấp dịch vụ thuê bao: khách hàng được quyền truy cập riêng.
- Dịch vụ gọi: khách hàng trả tiền cho mỗi lần sử dụng.
- Đường dây kỹ thuật số bổ sung không đối xứng ADSL
Một kiểu kết nối băng tần của mạng diện rộng đã được các công ty điện thoại phát triển từ những năm 1997. ADSL – Asymmetric Digital Subscriber Line, bằng cách dùng modem ADSL riêng người sử dụng có thể nhận dữ liệu với tốc độ trên 8 Mbps và gửi dữ liệu với tốc độ là 640 Kbps, điều này được thực hiện thông qua việc sử dụng đa hợp chia tần (FDM – Frequency Division Multiplexing).
Hình 1.13 Bộ phân tầng
Mỗi tín hiệu tương tự có thể điều hợp bằng một tần số riêng (gọi là tần số mang) để khiến nó phục hồi lại tín hiệu trong qui trình phân đa kênh. Ở đầu tiếp nhận, bộ đa hợp sẽ chọn ra tín hiệu tải đi và dùng nó để rút tín hiệu dữ liệu cho kênh đó. FDM hỗ trợ cả 2 hướng trên cùng một sợi cáp, một tần số có thể xuất phát từ cả hai đầu trên phương tiện truyền thông ngay tức khắc.
- Đường thuê bao – Leased Line
Là mạch truyền thông được thiết lập thường trực cho một tổ chức bởi các nhà cung cấp dịch vụ (FPT, VDC,…). Nhà cung cấp đảm bảo một băng thông rộng theo hợp đồng ký kết qua hệ thống chuyển mạch và đường dây trung kế (trunk line), đường thuê bao Leased line được coi như một mạch chuyên dụng riêng, để đạt tốc độ dữ liệu cao thì đường dây phải được bảo đảm..
Các tổ chức sử dụng đường thuê bao để liên kết mạng của mình với các mạng trung tâm khác ở xa hoặc với mạng diện rộng internet. Chi phí của đường thuê bao phụ thuộc vào dung lượng của đường truyền, khoảng cách giữ nơi kết nối và nhà cung cấp. Bạn cần phải cài đặt một "Chanel Service Unit" (CSU) để nối đến mạng T, và một "Digital Service Unit" (DSU) để nối đến mạng chủ (primary) hoặc giao diện mạng.
- ISDN (Integrated Service Digital Nework ).
Sử dụng đường điện thoại số thay vì đường tương tự. Do ISDN là mạng dùng tín hiệu số, bạn không phải dùng một modem để nối với đường dây mà thay vào đó bạn phải dùng một thiết bị gọi là "codec" với modem có khả năng chạy ở 14.4 kbit/s. ISDN thích hợp cho cả hai trường hợp cá nhân và tổ chức. Các tổ chức có thể quan tâm hơn đến ISDN có khả năng cao hơn ("primary" ISDN) với tốc độ tổng cộng bằng tốc độ 1.544 Mbit/s của đường T1. Cước phí khi sử dụng ISDN được tính theo thời gian, một số trường hợp tính theo lượng dữ liệu được truyền đi và một số thì tính theo cả hai.
- CATV link.
Công ty dẫn cáp trong khu vực của bạn có thể cho bạn thuê một "chỗ" trên đường cáp của họ với giá hấp dẫn hơn với đường điện thoại. Cần phải biết những thiết bị gì cần cho hệ thống của mình và độ rộng của dải mà bạn sẽ được cung cấp là bao nhiêu. Cũng như việc đóng góp chi phí với những khách hàng khác cho kênh liên lạc đó là như thế nào. Một dạng kỳ lạ hơn được đưa ra với tên gọi là mạng "lai" ("hybrid" Network), với một kênh CATV đợc sử dụng để lưu thông theo một hướng và một đường ISDN hoặc gọi số sử dụng cho đường trở lại. Nếu muốn cung cấp thông tin trên Internet, bạn phải xác định chắc chắn rằng "kênh ngược" của bạn đủ khả năng phục vụ cho nhu cầu thông tin của khách hàng của bạn.
- Frame relay.
Frame relay "uyển chuyển" hơn đờng thuê bao. Khách hàng thuê đường Frame relay có thể mua một dịch vụ có mức độ xác định - một "tốc độ thông tin uỷ thác" ("Committed Information Rale" - CIR). Nếu như nhu cầu của bạn trên mạng là rất "bột phát" (burty), hay người sử dụng của bạn có nhu cầu cao trên đường liên lạc trong suốt một khoảng thời gian xác định trong ngày, và có ít hoặc không có nhu cầu vào ban đêm - Frame relay có thể sẽ kinh tế hơn là thuê hoàn toàn một đường T1 (hoặc T3). Nhà cung cấp dịch vụ của bạn có thể đa ra một phương pháp tương tự như là phơng pháp thay thế đó là Switched Multimegabit Data Service.
- Chế độ truyền không đồng bộ (Asynchoronous Trangfer Mode - ATM).
ATM là một phương pháp tương đối mới đầu tiên báo hiệu cùng một kỹ thuật cho mạng cục bộ và liên khu vực. ATM thích hợp cho real-time multimedia song song với truyền dữ liệu truyền thống. ATM hứa hẹn sẽ trở thành một phần lớn của mạng tương lai.
Một số mạng vô tuyến được sử dụng:
- Đường vi sóng (Microware links).
Nếu cần kết nối vĩnh viễn đến nhà cung cấp dịch vụ nhưng lại thấy rằng đường thuê bao hay những lựa chọn khác là quá đắt, bạn sẽ thấy microware như là một lựa chọn thích hợp. Bạn không cần trả quá đắt cho cách này của microware, tuy nhiên bạn cần phải đầu tư nhiều tiền hơn vào lúc đầu, và bạn sẽ gặp một số rủi ro như tốc độ truyền đến mạng của bạn quá nhanh.
Đường vệ tinh (satellite links).
Nếu bạn muốn được chuyển một lượng lớn dữ liệu đặc biệt là từ những địa điểm từ xa thì đường vệ tinh là câu trả lời. Tầm hoạt động của những vệ tinh cùng vị trí địa lý với trái đất cũng tạo ra một sự chậm trễ (hoặc "bị che dấu") mà những người sử dụng Telnet có thể cảm nhận được.