Đồng tính luyến ái
, hay đồng tính chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu hay tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách lâu dài. cũng chỉ nhận thực của cá nhân dựa ...
, hay đồng tính chỉ việc bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu hay tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách lâu dài. cũng chỉ nhận thực của cá nhân dựa trên những hấp dẫn đó và sự tham gia vào một cộng đồng có chung điều này.Gay (từ tiếng Anh) chỉ người đồng tính nam, lesbian hay đọc ngắn là les là chỉ người đồng tính nữ. được coi là một dạng trong thang liên tục của thiên hướng tình dục.
có ở nhiều loài động vậtXác định tỉ lệ người đồng tính trong dân chúng một cách chính xác là một việc khó. Nhiều nghiên cứu cho biết từ 2 đến 20% người biểu hiện xu hướng đồng tính ở một mức độ nào đó mặc dù trong nhiều nền văn hóa trước đây quan hệ đồng tính rất phổ biến. Trong lịch sử, đồng tính luyến ái, dưới góc độ cá nhân, từng được ca tụng hoặc lên án vì mỗi xã hội có những chuẩn mực tình dục khác nhau. Ở những nơi đồng tính được ca ngợi, những quan điểm đó được coi là một cách làm cho xã hội tiến bộ. Ở những nơi đồng tính bị lên án, những hành vi cụ thể bị coi là một tội lỗi hoặc bệnh hoạn và một số hành vi đồng tính bị luật pháp cấm. Từ giữa thế kỷ 20, đồng tính dần dần không còn bị xem là một căn bệnh và phạm pháp ở hầu hết các nước phát triển. Tuy nhiên, luật pháp về quan hệ đồng tính rất khác biệt ở các nước khác nhau. Ở nhiều nơi, vài hành vi đồng tính nào đó là phạm pháp và bị xử rất nặng bao gồm cả tử hình.
Nhiều người đồng tính che dấu cảm xúc và hành vi của họ vì sợ không được công nhận hoặc bị bạo hành. Tuy vậy, có những người đồng tính công khai thiên hướng tình dục. Những nổ lực nhằm giải phóng đồng tính luyến ái được cho là bắt đầu từ thập niên 1860 và từ giữa thập niên 1950, sự xuất hiện, sự công nhận và quyền cho người đồng tính và song tính luyến ái ngày càng tăng lên. Tuy nhiên, chứng ghê sợ đồng tính luyến ái vẫn còn, đặc biệt là nó làm cho nhiều người trẻ phải chịu đựng điều này và gặp nhiều khó khăn trong xã hội đôi khi dẫn đến tự tử.
Tại Việt Nam hiện nay không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính[9] nhưng luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cấm hôn nhân giữa hai người cùng giới tính.
Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ, Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, Hiệp hội Lao động Xã hội Quốc gia (Hoa Kỳ) khẳng định:
“ Thiên hướng tình dục chỉ một việc bị hấp dẫn về mặt tình dục hoặc tình cảm đối với nam, nữ hoặc cả hai. Nó chỉ cảm xúc cá nhân hoặc nhận thực xã hội dựa trên những hấp dẫn đó, những hành vi thể hiện và sự tham gia vào một cộng đồng có những đặc điểm chung này. Mặc dù thiên hướng tình dục thay đổi một cách liên tục từ hoàn toàn dị tính luyến ái cho đến hoàn toàn đồng tính luyến ái, thiên hướng tình dục thường được nói đến dưới ba dạng: dị tính luyến ái (bị hấp dẫn tình dục và tình cảm chủ yếu hoặc hoàn toàn bởi người khác giới), đồng tính luyến ái (bị hấp dẫn tình dục và tình cảm chủ yếu hoặc hoàn toàn bởi người cùng giới) và song tính luyến ái (bị hấp dẫn tình dục và tình cảm ở một mức độ đáng kể bởi cả nam và nữ). Thiên hướng tình dục là khác biệt với những yếu tố tạo nên giới tính và tình dục. Những yếu tồ này bao gồm giới tính sinh học (đặc điểm giải phẫu, tâm lý và di truyền gắn liền với người nam hoặc người nữ), nhận thực giới tính (cảm giác của cá nhân rằng họ thực sự là nam hoặc nữ) và thể hiện giới tính (gắn liền với những chuẩn mực văn hóa qui định những hành vi nam tính và nữ tính).
Thiên hướng tình dục thường được nói đến như là một đặc điểm cá nhân, chẳng hạn như thiên hướng tình dục hướng tới một dạng giới tính sinh học, một dạng nhận thực giới tính hoặc một dạng tuổi tác nào đó. Tuy nhiên không chỉ bao gồm những yếu tố này vì thiên hướng tình dục là một khái niệm bao gồm cả mối quan hệ với những cá nhân khác. Những hành vi tình dục và hấp dẫn tình cảm được phân loại là đồng tính hoặc dị tính dựa trên giới tính sinh học của những cá nhân tham gia. Thực vậy, hành động hoặc ham muốn thực hiện hành động với người khác là những biểu hiện thể hiện người đồng tính, dị tính hoặc song tính. Những hành động này có thể đơn giản như nắm tay hoặc hôn. Do đó, thiên hướng tình dục có liên hệ mật thiết với những mối quan hệ mà cá nhân có với người khác để đáp ứng nhu cầu tình yêu, sự gắn kết và sự thân mật. Bên cạnh hành vi tình dục, những gắn kết đó còn bao gồm những tình cảm thể chất phi tính dục cũng như những giá trị và mục tiêu chung, sự hỗ trợ lẫn nhau và cả sự ràng buộc.
Cho nên, thiên hướng tình dục không đơn thuần là một đặc điểm cá nhân có thể định nghĩa một cách độc lập mà nó là thế giới của từng cá nhân hướng tới một người nào đó mà người này có thể đảm bảo hoặc đáp ứng một mối quan hệ, mà mối quan hệ này thể hiện được bản chất cá nhân của mình.
”
Có nhiều giả thuyết về các yếu tố hình thành nên thiên hướng tình dục đồng tính luyến ái trong đó bao gồm:
- Kiểu gen (bẩm sinh).
- Môi trường sống và sự dạy dỗ.
- Số lượng anh trai của đối tượng (đối với người đồng tính nam).
- Hoócmôn trong giai đoạn bào thai.
- Sự lo âu của người mẹ khi mang thai.
- Tổng hợp của các yếu tố trên.
Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pedeatrics) khẳng định rằng “Thiên hướng tình dục chỉ được quyết định bởi sự tổng hợp của kiểu gen, hoocmon và ảnh hưởng môi trường”. Nhiều tranh cãi tiếp tục dựa trên các yếu tố sinh học và/hoặc tâm lí như kiểu gen và sự hoạt động của một số hoocmon ở bào thai. Sigmund Freud và các nhà tâm lí khác xác nhận rằng sự hình thành thiên hướng tình dục do nhiều nhân tố trong đó có các sự việc quá khứ xảy ra trong thời thơ ấu.
Vài người đồng tính và song tính tìm cách giảm bớt ham muốn, tránh xa quan hệ đồng giới hoặc thay đổi thiên hướng tình dục. Họ thay đổi bằng trị liệu, thực hiện qui tắc tôn giáo hoặc tham gia vào các nhóm ex-gay (như nhóm Exodus International). Nhiều tổ chức sức khỏe và tâm thần phương Tây tin rằng thiên hướng tình dục luôn tiến triển trong suốt cuộc đời và họ cũng tôn trọng sự tự quyết định của mỗi người. Tuy nhiên, chưa có bằng chứng khoa học nào chứng minh sự hiệu quả hoặc tác hại của những phương pháp trị liệu. Các tổ chức này khuyến cáo rằng không nên cố gắng thay đổi thiên hướng tình dục vì lo ngại có tác hại nào đó. Hoạt động của các nhóm ex-gay và việc trị liệu trong trường học được tranh cãi nhưng lại được các tòa án Mỹ cho phép.
Mỗi người đồng tính có thể thể hiện tình dục của họ bằng cách này hay cách khác và có thể cũng không có hành vi nào thể hiện ra. Một số chủ yếu quan hệ tình dục với người cùng giới, một số chủ yếu với người khác giới, cả hai giới hoặc kiêng tình dục. Nghiên cứu cho thấy nhiều người đồng tính mong muốn có mối quan hệ bền vững và họ cũng đã thực hiện được. Ví dụ kết quả thống kê cho thấy 40% đến 60% người đồng tính nam và 45% đến 80% người đồng tính nữ hiện đang có một quan hệ tình cảm. Thống kê cũng cho thấy 18% đến 28% cặp đồng tính nam và 8% đến 21% cặp đồng tính nữ ở Hoa Kỳ đã sống với nhau được 10 năm trở lên. Có những nghiên cứu cho thấy các cặp đồng tính và các cặp dị tính là tương đương nhau về mặt toại nguyện và sự gắn kết nhiều hay ít trong quan hệ tình cảm. Nghiên cứu cho thấy đặc điểm tuổi tác và giới tính có liên quan nhiều đến sự toại nguyện và sự gắn kết hơn là thiên hướng tình dục; người đồng tính và người dị tính có chung những mong muốn và lý tưởng trong tình cảm
Roy và Silo, hai con chim cánh cụt đực ở vườn thú Trung tâm, New York, tương tự như trong hình, đã nổi tiếng trên thế giới khi chúng cặp đôi và được cho một trứng để ấp và nuôi con. Chúng đã thành công.
Các biểu hiện về đồng tính thật sự có trong thế giới động vật, đặc biệt trong các loài chim biển, động vật có vú, khỉ và các loài linh trưởng lớn. Đã có 1500 trường hợp được quan sát, trong đó có khoảng 500 trường hợp được miêu tả khá cụ thể
Các đôi chim cánh cụt đực coi nhau như những người bạn đời. Chúng xây tổ cùng nhau, lấy một hòn đá thay trứng để ấp. Năm 2004, ở Central Park Zoo, Mỹ, người ta đã thay một hòn đá của đôi chim cánh cụt đực bằng một quả trứng thật, kết quả là đôi chim đó đã chăm sóc quả trứng này cũng như con non nở ra như chính con của chúng. Hiện tượng này cũng được báo cáo bởi một số vườn thú khác
Jannet Mann, giáo sư của Đại học Georgetown cho rằng, các biểu hiện đồng tính ở động vật, ít nhất là ở cá heo, là một lợi thế về tiến hóa để giảm thiểu sự xâm chiếm lãnh thổ, đặc biệt là giữa những con đực
Thống kê tỉ lệ người đồng tính gặp phải một số khó khăn:
Phải lựa chọn yếu tố nào để xác định một người là đồng tính. Số người có ham muốn quan hệ đồng giới có thể nhiều hơn số người thực hiện ham muốn đó, số người thực hiện này lại có thể nhiều hơn số người tự nhận mình là đồng tính/song tính
Số liệu về tỉ lệ người đồng tính có ý nghĩa trong việc hoạch định các chính sách chẳng hạn như xác định chi phí và phúc lợi của từng gia đình, tác động của việc hợp pháp hóa đồng tính.
Tỉ lệ người hoàn toàn đồng tính trong dân chúng là từ > 1% đến 10%, đồng tính nam nhiều hơn đồng tính nữ.
Các số liệu thay đổi tùy quốc gia. Một nghiên cứu 1992 cho thấy 6.1% nam giới ở Vương quốc Anh từng có quan hệ đồng tính, trong khi ở Pháp là 4.1%. Theo một thống kê 2003, 12% người Na Uy từng quan hệ tình dục đồng giới. Trong một cuộc thăm dò 2008, trong khi chỉ có 6% người Anh tự nhận là đồng tính hoặc song tính, 13% người Anh đã từng quan hệ tình dục với người cùng giới.
Ở Mỹ, cuộc thăm dò ngày 4 tháng 11 năm 2008 trong cuộc bầu cử Tổng thống cho thấy tỉ lệ người tự nhận là đồng tính hoặc song tính là 4%.
Một cặp đồng tính nam và con
Nhiều người đồng tính, song tính có thể trở thành cha hoặc mẹ bằng nhiều cách như xin con nuôi, thụ tinh nhân tạo hoặc nhận đỡ đầu hoặc có khi con là con riêng của một người với vợ hoặc chồng cũ là dị tính luyến ái, nhờ sinh con hộ. Theo điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, 33% cặp đồng giới nữ và 22% cặp đồng giới nam đang sống với ít nhất một người con dưới 18 tuổi. Vài trẻ không biết rằng cha/mẹ của chúng là người đồng tính/song tính. Tình trạng công khai thiên hướng tình dục cũng khác nhau và vài người không bao giờ công khai với con mình. Người LGBT làm cha mẹ nói chung và nhận con nuôi nói riêng là vấn đề gây tranh cãi ở nhiều nước phương Tây và thường được xem là cuộc chiến văn hóa giữa quan niệm bảo thủ và tự do. Tháng 1 năm 2008, Tòa án châu Âu về quyền con người tuyên bố các cặp cùng giới có quyền nhận con nuôi Ở Hoa Kỳ, người đồng tính/song tính có thể nhận con nuôi một cách hợp pháp ở tất cả các tiểu bang trừ Florida
Nghiên cứu khoa học cho thấy kết quả thống nhất rằng người đồng tính cũng thích hợp và có khả năng làm cha/mẹ như người dị tínhNghiên cứu ghi nhận rằng không có sự liên quan giữa thiên hướng tình dục của cha/mẹ với sự điều chỉnh tình cảm, tâm lý và hành vi của đứa trẻ. Các tài liệu cho thấy rằng hôn nhân sẽ nâng cao tình trạng tài chính, tâm lý, thể chất và rằng việc được nuôi dưỡng bởi một cặp được pháp luật công nhận sẽ tốt cho đứa trẻ.
Giáo sư Judith Stacey, Đại học New York, ghi nhận: “Hiếm khi có nhiều đồng thuận về bất cứ phương diện nào trong khoa học xã hội như về vấn đề con cái của người đồng tính, do đó Viện Nhi khoa Hoa Kỳ và tất cả các tổ chức chuyên ngành về bảo vệ trẻ em đã có những báo cáo và quyết định để hỗ trợ quyền nuôi con của người đồng tính.”Trong số những tổ chức này có Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ, Hiệp hội Lao động Xã hội Quốc gia (Hoa Kỳ), Liên đoàn Bảo vệ Trẻ em Mỹ, Hiệp hội Luật sư Hoa Kỳ, Hội đồng Bắc Mỹ về con nuôi, Viện Nhi khoa Hoa Kỳ, Hiệp hội Phân tâm học Hoa Kỳ, Viện Thầy thuốc Gia đình Hoa Kỳ ở Hoa Kỳ, Đại học Tâm thần Hoàng gia ở Vương quốc Anh và Hiệp hội Tâm lý Canada ở Canada.
Luật pháp trên thế giới về đồng tính luyến ái
Mặc dù đồng tính luyến ái đã không bị coi là phạm pháp nhiều nơi ở phương Tây, chẳng hạn như[62][63] Ba Lan 1932, Đan Mạch 1933, Thụy Điển 1944 và Anh 1967, cộng đồng đồng tính vẫn chưa có quyền hợp pháp dẫu chỉ là hạn chế cho đến giữa những năm 70. Một bước ngoặt quan trọng là vào năm 1973, Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ đưa đồng tính luyến ái ra khỏi Danh sách các rối loạn tâm thần. Năm 1977, Quebec tại Canada đã trở thành bang đầu tiên cấm kỳ thị dựa trên thiên hướng tình dụcNhững năm 80 và 90, hầu hết các nước phát triển đã hợp pháp hóa đồng tính luyến ái và cấm kỳ thị người đồng tính trong công việc, cư trú và dịch vụ.
Thái độ của xã hội về đồng tính phản ánh thái độ của chính quyền và tôn giáo, đã thay đổi rất nhiều trong suốt chiều dài lịch sử cũng như bề rộng của Trái Đất, từ việc bắt mọi người đàn ông có quan hệ, đến việc chấp nhận, đến việc xem nó như một tội nhỏ bị cấm đoán qua luật pháp và tòa án, cho đến việc xem nó như là một trọng tội đáng bị xử tử.
Chống kết hôn đồng giới ở Tây Ban Nha.
Trong nhiều nền văn hóa, người ta thường có thành kiến và kỳ thị người đồng tính. Người đồng tính nam được xem là ẻo lả và chạy theo mốt. Tuy vậy nghiên cứu cho thấy họ có những quan hệ tình cảm lâu dài. Nhiều người cho rằng người đồng tính nam thích ấu dâm và lạm dụng tình dục trẻ em hơn là người dị tính nam, các nghiên cứu cho thấy điều này không đúng. Nhiều người nghĩ người đồng tính nữ là những người như đàn ông và đôi khi ghét đàn ônghoặc người đấu tranh cho quyền phụ nữ
Trong nhiều trường hợp người đồng tính bị kết tội là nguyên nhân của tệ nạn xã hội. Trong thế kỷ 20, Đức quốc xã hành quyết những người đồng tính vì cho rằng họ đe dọa cho sự nam tính và làm dơ bẩn "giống nòi Aryan".
Những năm 1950, hàng trăm người bị sa thải vì là đồng tính trong một chiến dịch có tên là "Nỗi sợ hoa oải hương" của McCarthyism. Tuy nhiên, nhiều nhà chính trị đã chỉ trích một cách mỉa mai ông vì có phụ tá là người đồng tính, Roy Cohm.
Vào tháng 1 năm 2001 Bộ văn hóa Ai Cập cho đốt 6.000 quyển sách thơ đồng tính thế kỷ thứ 8 của nhà thơ Ba Tư-Ả Rập Abu Nuwas để xoa dịu người Hồi giáo
Ở Mỹ, theo FBI 15.6% vụ tấn công do thù ghét được trình báo với cảnh sát là do kỳ thị thiên hướng tình dục. Trong đó 61% vụ tấn công là nhằm vào người đồng tính nam. Năm 1998 một sinh viên đồng tính, Mathew Shepard, bị giết là một trong những vụ tai tiếng nhất ở Mỹ.
Hiện nay đồng tính luyến ái bị xử tội chết ở các nước Iran, Mauritania, Nigeria, Pakistan, Saudi Arabia, Sudan, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và Yemen
Hiện nay, trên quan điểm pháp luật, hầu hết các quốc gia trên thế giới không cấm đoán quan hệ tình dục giữa những người đủ tuổi. Một số địa phương công nhận đồng quyền, và đối xử những cặp đồng tính như vợ chồng. Một số địa phương khác, như các nước Hồi giáo, không chấp nhận việc quan hệ đồng tính và người quan hệ đồng tính có thể bị phạt tù hoặc thậm chí tử hình. Tại Việt Nam hiện nay không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính, nhưng luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cấm hôn nhân giữa hai người cùng giới tính.
Hiện nay ở Việt Nam, có một số người nêu lên quan điểm cảm thông và không kỳ thị đối với người đồng tính tuy nhiên không ủng hộ hay cổ xúy xu hướng này. Đa số dân chúng có thái độ e ngại hoặc khinh thường và thường đánh đồng người đồng tính và người hoán tính/người chuyển đổi giới tính. Một số bộ phim miêu tả những nhân vật đồng tính nam như những người có hình dáng và điệu bộ nữ tính, không nghiêm túc. Một số tác phẩm văn học có cái nhìn trực diện về giới đồng tính như Một thế giới không đàn bà về người đồng tính nam (đã được dựng thành phim) và Vòng tay không đàn ông về người đồng tính nữ của Bùi Anh Tấn. Không có nhiều tổ chức, phong trào nhằm giáo dục, định hướng cho người đồng tính ở Việt Nam. Câu lạc bộ Hải Đăng ở Hà Nội và Câu lạc bộ Bầu trời xanh ở Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập nhằm giáo dục người đồng tính về phòng chống HIV và giúp đỡ họ có cuộc sống lành mạnh.
Theo các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse, tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu về đồng tính luyến ái. Trước sự xuất hiện của HIV/AIDS tại Việt Nam đầu thập niên 1990, có rất ít thông tin về đồng tính luyến ái. Theo bác sĩ Trần Bồng Sơn, nhà giới tính học nổi tiếng nhất[9]" tại Việt Nam, có hai loại người đồng tính: "thật" và "giả". Những người "đồng tính thật" là những người đồng tính bẩm sinh, và số người này rất hiếm. Theo ông, hầu hết những người đồng tính là "giả", bị bạn bè rủ rê để thử nghiệm các lối mới nhưng cuối cùng cũng trở về lối thường. Sau trao đổi ý kiến với ông Sơn, các nhà nghiên cứu Colby, Cao và Doussantousse cho rằng quan điểm đó là ý kiến cá nhân của ông Sơn, chứ không phải từ các nghiên cứu hay tài liệu. Tuy thế, vì bác sĩ Sơn có nhiều ảnh hưởng, quan điểm này đã được lặp lại nhiều lần tại Việt Nam và được xem là đúng[9].
Vài nhà thờ nhận rửa tội cho các cặp đồng giới, vài nhà thờ khác nhận tổ chức hôn lễ. Trong ảnh là dòng chữ tiếng Anh: Kết hôn là một quyền công dân.
Tôn giáo có nhiều quan niệm khác nhau về tình yêu và tình dục đồng giới. Chống đối đồng tính luyến ái thay đổi từ ngấm ngầm can ngăn cho đến chính thức cấm đoán đồng tính luyến ái và tích cực chống đối sự chấp thuận của xã hội đối với người đồng tính.
Vài người đồng tính và song tính tìm cách giảm bớt ham muốn, tránh xa quan hệ đồng giới hoặc thay đổi thiên hướng tình dục. Họ thay đổi bằng trị liệu, thực hiện qui tắc tôn giáo hoặc tham gia vào các nhóm ex-gay (như nhóm Exodus International). Nhiều tổ chức sức khỏe và tâm thần phương Tây tin rằng thiên hướng tình dục luôn tiến triển trong suốt cuộc đời [20] và họ cũng tôn trọng sự tự quyết định của mỗi người.[79] Tuy nhiên, chưa có bằng chứng khoa học nào chứng minh sự hiệu quả hoặc tác hại của những phương pháp trị liệu.[80] Các tổ chức này khuyến cáo rằng không nên cố gắng thay đổi thiên hướng tình dục vì lo ngại có tác hại nào đó.[81] Hoạt động của các nhóm ex-gay và việc trị liệu trong trường học được ra tranh cãi nhưng lại được các tòa án Mỹ cho phép.
Lá cờ cầu vồng, một biểu tượng của cộng đồng LGBT, trong đó có người đồng tính, trong lễ Phục sinh của người đồng tính ở Gemeinde Werneuchen, Đức, tháng 4 năm 2006.
Nhiều giáo hội dạy rằng nên yêu thương người đồng tính dẫu cho tình dục của họ thế nào nhưng dạy chống lại các mối quan hệ đồng tính. Sách giáo lý (Catechism) của đạo Cơ đốc cho rằng người đồng tính "phải được công nhận, tôn trọng, yêu thương. Cần tránh mọi dấu hiệu kỳ thị".Giáo hội Mặc môn lên án bạo hành người đồng tính và chính thức tuyên bố "giang tay đón nhận bằng sự thấu hiểu và tôn trọng".
Các giáo hội khác đã thay đổi học thuyết để thích nghi với mối quan hệ đồng giới. Do Thái giáo cấp tiến, nhánh lớn nhất của đạo Do Thái ngoài Israel, đã tạo điều kiện cho các đám cưới đồng giới trong giáo đường.
Mặt khác, Anh giáo gặp phải sự bất đồng giữa một bên là các giáo hội Anh giáo tại châu Phi (trừ vùng Nam Phi) và tại châu Á và một bên là các giáo hội Anh giáo tại Bắc Mỹ khi giáo hội Mỹ và Canada chấp nhận các giáo sĩ đồng tính và bắt đầu ủng hộ kết hợp dân sự đồng giới.
Nhiều nhóm tôn giáo lại tẩy chay các công ty có chính sách ủng hộ cộng đồng thiên hướng tình dục thiểu số. Đầu năm 2005, Hiệp hội gia đình Hoa Kỳ đe dọa tẩy chay sản phẩm của Ford khi công ty này ủng hộ hôn nhân đồng giới.
Để tránh lây nhiễm, nam quan hệ với nam được khuyến cáo nên:
- Tránh chạm vào dịch cơ thể hoặc bất kỳ vết thương hở nào của bạn tình.
- Sử dụng bao cao su trong tình dục hậu môn và làm tình bằng miệng.
- Sử dụng tấm chắn (ví dụ miếng nhựa, bao cao su cắt ra) khi tiếp xúc miệng-hậu môn.
- Trùm lên đồ chơi tình dục (sex toy) một bao cao su mới khi dùng với bạn tình khác; nên dùng một chiếc đồ chơi cho từng người; dùng bao tay nhựa và dầu bôi trơn cá nhân trong bất kỳ hành vi tình dục nào có thể gây chảy máu.
Nếu người đồng tính nam có quan hệ tình dục với người nam khác thì thuộc nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam nên các vấn đề về sức khỏe tương tự như nhóm hành vi này. Đọc các vấn đề sức khỏe của nhóm hành vi nam có quan hệ tình dục với nam để biết thêm chi tiết. Nam quan hệ với nam không chỉ bao gồm người đồng tính luyến ái nam, song tính luyến ái nam mà bao gồm tất cả người nam có quan hệ tình dục với nam.
Tương tự, đọc nữ có quan hệ tình dục với nữ để biết thêm chi tiết. Nữ quan hệ với nữ không chỉ bao gồm người đồng tính luyến ái nữ, song tính luyến ái nữ mà bao bồm tất cả người nữ có quan hệ tình dục với nữ.