25/04/2018, 22:08

Đọc hiểu Nghệ thuật băm thịt gà, I – Gợi dẫn 1. Ngô Tất Tố (1893 – 1954) quê ở làng Lộc Hà, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, ...

– Đọc hiểu Nghệ thuật băm thịt gà. I – Gợi dẫn 1. Ngô Tất Tố (1893 – 1954) quê ở làng Lộc Hà, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Ông học chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ và cả tiếng Pháp. Có thể nói Ngô Tất Tố là một nhà nho hiện đại I – Gợi dẫn 1. Ngô ...

– Đọc hiểu Nghệ thuật băm thịt gà. I – Gợi dẫn 1. Ngô Tất Tố (1893 – 1954) quê ở làng Lộc Hà, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Ông học chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ và cả tiếng Pháp. Có thể nói Ngô Tất Tố là một nhà nho hiện đại
I – Gợi dẫn 1. Ngô Tất Tố (1893 – 1954) quê ở làng Lộc Hà, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Ông học chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ và cả tiếng Pháp. Có thể nói Ngô Tất Tố là một nhà nho hiện đại

Ông nổi tiếng trên văn đàn đầu thế kỉ XX với nhiều tác phẩm có giá trị. Ông là một trong những nhà nho đầu tiên viết báo rất nhiều và viết rất hiện đại. Những tác phẩm nổi tiếng, gắn liền với tên tuổi của Ngô Tất Tố là hai tiểu thuyết Tắt đèn (1936), Lều chõng (1939) và hai phóng sự Tập án cái đình (1939), Việc làng (1940).

2. Việc làng là thiên phóng sự dài 17 chương với nội dung ghi lại, phân tích và phơi bày những hủ tục nhiêu khê và lạc hậu ở nông thôn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Những hủ tục ấy đã đẩy người dân quê vào cảnh cùng quẫn và tạo cơ hội để bọn cường hào, địa chủ nhũng nhiễu dân lành.

3. Đoạn trích Nghệ thuật băm thịt gà thuộc chương IV của phóng sự, tả một cảnh chia thịt gà hiếm thấy. Qua việc chia thịt gà ấy, tác giả châm biếm bọn cường hào chức dịch tham lam, bần tiện trong làng. Chúng ngồi thật cao, ra vẻ cao sang nhưng thực chất là một lũ tham ăn, chia nhau 1/5 cái sỏ gà. Với cách kể nhẹ nhàng tự nhiên, Ngô Tất Tố đã châm biếm một cách rất sâu sắc những hủ tục quái gở, mọi rợ. Và miếng ăn đã trở thành miếng nhục với cái lệ làng nhiêu khê ấy.

4. Đọc kĩ các chú thích. Chú ý phân biệt ngữ điệu đọc giữa tả, kể và đối thoại.

II  Kiến thức cơ bản

Người đọc đã rất quen thuộc với chị Dậu trong Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Với tác phẩm này, ông đã trở thành một cây đại thụ trong làng văn Việt Nam đầu thế kỉ XX. Qua việc thể hiện số phận của chị Dậu, nhà văn đã nói lên một cách thống thiết nỗi cùng cực của những người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Nhưng Ngô Tất Tố không chỉ là một nhà tiểu thuyết, ông còn là một nhà báo, một cây bút viết phóng sự rất thành công. Ông là một trong những người tiêu biểu của lớp nhà nho học chữ Hán, biết tiếng Tây và viết báo giỏi. Phóng sự Việc làng là một trong những tác phẩm đầu tiên của thể loại phóng sự – một thể loại văn học mới mẻ của văn học Việt Nam.

Phóng sự là kết quả của một nền văn học hiện đại. Chỉ khi có báo chí ra đời, thể loại này mới hình thành và phát triển mạnh mẽ. Đầu thế kỉ XX, với sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hoá phương Tây, trong đó có văn học, nền văn học Việt Nam đã có cơ hội phát triển rất nhanh, mạnh. Đời sống văn học thời kì này vô cùng sôi nổi, nền văn học được hiện đại hoá một cách mau lẹ. Một số thể loại văn học mới xuất hiện, các thể loại cũ được cách tân về nhiều mặt. Lúc này, do nhu cầu đọc của công chúng mà văn học gắn bó rất mật thiết với báo chí. Và kết quả, thể loại phóng sự đã ra đời. Trên văn đàn những năm 30 xuất hiện cây bút viết phóng sự tài năng, đó là “ông vua phóng sự đất Bắc” Vũ Trọng Phụng. Thể loại phóng sự phát triển. Nhà nho Ngô Tất Tố cũng đã rất nhanh chóng nhập cuộc và góp cho thể loại văn học mới mẻ này hai tác phẩm có giá trị là Việc làng và Tập án cái đình. Cả hai phóng sự này đều khai thác mảng đề tài vốn là thế mạnh của Ngô Tất Tố, đề tài nông thôn.

Ngay cái tên của phóng sự đã thâu tóm được nội dung cơ bản của tác phẩm. Dân tộc Việt Nam vốn sinh ra và phát triển cùng nền văn minh lúa nước và văn hoá làng xã là đặc trưng nổi bật của văn hoá Việt Nam. Việc làng đã trở thành sinh hoạt không thể thiếu ở các làng xã. Thế nhưng không phải việc làng nào cũng là nét văn hoá đẹp của làng quê. Nhất là trong xã hội cũ. Những việc làng nhiêu khê đã trở thành gánh nặng đè lên đôi vai người nông nghèo. Hơn nữa, bọn cường hào lí dịch lại lợi dụng những việc làng ấy để vơ vét, bóc lột, tranh giành miếng ăn. Phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố khai thác những mặt tiêu cực trong những hoạt động tập thể chốn làng quê vốn được gọi là “việc làng” ấy.

Tác giả xuất hiện trong phóng sự với vị trí nhân vật “tôi”, một người ngoài, đứng ngoài việc làng quan sát và ghi lại những điều “mắt thấy tai nghe”. Người tường thuật cố dùng một giọng điệu khách quan, một giọng điệu đặc trưng của thể loại phóng sự, để ghi lại tình tiết câu chuyện, còn phần bình luận để dành cho người đọc.

Đoạn trích Nghệ thuật băm thịt gà thuộc chương IV của thiên phóng sự Việc làng. Đoạn trích ghi lại một buổi thực hiện lệ làng của nhà Lăng Vân, được gọi là “chứa hàng xóm”. Người kể chuyện không bình luận gì về cái lệ này mà chỉ ghi lại những gì nhìn thấy. Ông tường thuật bao quát về thành phần tham gia : “Người đến mỗi lúc một đông. Già có, trẻ có, đứng bóng có. Toàn là đàn ông tất cả”. Những người đến đầu tiên là những ông già khăn áo chỉnh tề.

Nhưng đó chỉ là đoạn vào chuyện. Người kể chuyện tập trung vào một việc khác, đó là việc băm thịt gà của anh mõ làng. Sự xuất hiện của anh mõ với mâm lễ mới chính là điểm nóng của câu chuyện, nó cũng được bắt đầu rất bất ngờ, dễ gây chú ý nhờ tiếng thét của một ông già. Sau đó tác giả tập trung miêu tả đồ lễ vừa được đội đến. Người kể đặc biệt chú ý đến con gà, bởi đây chính là đối tượng trung tâm của câu chuyện : “Con gà cũng không nhỏ lắm, ước chừng một người ăn cố mới hết”. Lời nhận xét đầu tiên này đã xuất hiện yếu tố trào phúng. Mâm lễ được miêu tả rất chi tiết. Qua đó, người đọc dễ dàng hình dung được độ lớn của mâm lễ. Cái mâm lễ ấy là tâm điểm của câu chuyện. Nó bắt đầu được tính toán để chia phần. Sau một hồi tính toán, họ đã quyết định chia cái mâm cỗ ấy thành hai mươi ba cỗ.

Và dưới bàn tay băm thịt gà điệu nghệ, có kinh nghiệm mấy đời của thằng Mới, chỉ riêng cái mình con gà, đã được chia thành 92 miếng.

Tác giả tập trung theo dõi và miêu tả rất tỉ mỉ việc băm thịt gà của anh mõ làng. Nhưng điều tác giả muốn nói chắc chắn không dừng lại ở việc ca ngợi tài băm thịt gà của thằng Mới, mặc dù tác giả đã dành rất nhiều thời gian để miêu tả tỉ mỉ công việc này. Theo dõi việc “băm thịt gà” của anh Mới, tác giả đã vô cùng ngạc nhiên và ra vẻ thán phục : “Tôi chịu lắm. Và tôi muốn dâng cho ông Mới ấy cái chức nghệ sĩ”. Sản phẩm của cái “nghệ thuật băm thịt gà” của anh Mới được người kể chuyện nhận xét : “Trông những miếng thịt của hắn bốc ra góc mâm, mới đẹp làm sao ! Không dập, không nát, không bong da, nó giống như tập cánh con bươm bướm. Nếu để trước môi mà thổi, có thể bay được mười thước.” Lời nhận xét ấy không phải chỉ là lời thán phục tài nghệ của anh Mới. Đó là lời châm biếm cái sự chia phần khủng khiếp ở làng này.

Cái tài năng đến trình độ “nghệ sĩ”, được coi là nghệ thuật ấy của anh Mới lại gắn với một mục đích dung tục. Cái tài của anh Mới chứng tỏ rằng việc băm một con gà to khoảng “một người ăn cố mới hết” thành hơn một trăm miếng không thể là tài năng bẩm sinh. Nó là công việc phải rất quen làm, được tôi luyện nhiều lần. Anh Mới băm thịt gà vô cùng thành thạo và điêu luyện. Nó chứng tỏ đây là công việc rất quen thuộc của anh. Đó chính là công việc quen thuộc ở làng. Và ở đây miếng ăn đã trở thành một cái gì vô cùng quan trọng. Người xưa vẫn nói “Một miếng giữa làng hơn một sàng xó bếp” để thể hiện cái quan niệm về miếng ăn danh dự. Đã đành việc chia phần công bằng giữa làng là vô cùng quan trọng, nhưng chia cái lễ thành 23 phần như thế thì quả là khủng khiếp. Đến việc băm cái sỏ gà thành mấy phần anh mõ làng cũng phải đứng lên để hỏi ý kiến các cụ. Không trực tiếp thể hiện thái độ nhưng qua giọng điệu và cách miêu tả rất chi tiết việc băm thịt gà của anh Mới, người kể chuyện đã thể hiện thái độ phê phán của mình đối với một cái “việc làng” nhiêu khê và lạ lẫm ở làng quê.

Nghệ thuật băm thịt gà đã nêu lên và phê phán một trong những hủ tục vô cùng lạc hậu ở làng xã. Mục đích của lệ “chứa hàng xóm” không hẳn là xấu nhưng việc quá coi trọng miếng ăn đã biến cái lệ làng ấy trở thành một thứ hủ tục. Khi viết phóng sự, Ngô Tất Tố đã dùng cái chất thâm thuý của nhà nho để làm tăng giá trị phê phán cho tác phẩm.

Trong đoạn trích, tác giả đã dùng một biện pháp đặc trưng của nghiệp vụ báo chí là ghi chép tại chỗ. Chọn hình thức này cùng giọng điệu miêu tả khách quan, tác giả đã tạo nên tính xác thực của câu chuyện được kể, nhờ đó giá trị phê phán càng thêm sâu sắc. Không gay gắt, cay nghiệt như Vũ Trọng Phụng viết Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, phóng sự của Ngô Tất Tố thiên về phê phán một cách thâm thuý, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Đó là phong cách của một nhà nho viết báo.

III  liên hệ

Việc làng là tập phóng sự về những hủ tục “quái gở, mọi rợ” trong nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Mỗi chương sách là một câu chuyện thương tâm về một lệ làng, một mối tai hoạ đối với người nông dân khốn khổ. Đáng chú ý là Việc làng đã vạch ra chính bọn địa chủ, cường hào, những Chánh tổng, Lí trưởng, Chánh hội, Chưởng lễ,… là kẻ đã bày đặt và duy trì hủ tục để đục khoét dân lành, đẩy nhiều gia đình đến chỗ phá sản, có người phải chết.

… Là một nhà văn xuất sắc của nông thôn Việt Nam, Ngô Tất Tố không chỉ tố cáo chế độ thực dân phong kiến mà còn thể hiện lòng thương yêu, thái độ trân trọng thực sự đối với nhân dân. Điều đó khiến cho ông có vị trí cao trong văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

(Nguyễn Hoành Khung, Từ điển văn học, Sđd)

van vinh thang

0 chủ đề

23876 bài viết

Có thể bạn quan tâm
0