25/05/2018, 10:12

Đánh giá đất đai

Trong bước hình thành nên phần trung tâm của đánh giá đất đai, phương thức thực hiện theo các câu hỏi đặt ra sau: Cho từng kiểu sử dụng đất đai riêng biệt thì vùng nào cho thích hợp nhất ? Trong một vùng nào đó thì kiểu sử ...

Trong bước hình thành nên phần trung tâm của đánh giá đất đai, phương thức thực hiện theo các câu hỏi đặt ra sau:

  • Cho từng kiểu sử dụng đất đai riêng biệt thì vùng nào cho thích hợp nhất ?
  • Trong một vùng nào đó thì kiểu sử dụng nào tốt nhất ?

Cách để biết được vấn đề trên cho có hệ thống thì được biên soạn trong “ Cấu trúc của đánh giá đất đai” (FAO, 1976) và những phương thức chi tiết được trình bày trong quyển “Hướng dẫn đánh giá đất đai cho nông nghiệp sử dụng nước trời, nông nghiệp có tưới, lâm nghiệp và đồng cỏ” . Đơn giản hóa phương thức đánh giá đất đai bao gồm:

  • Mô tả kiểu sử dụng đất đai có triển vọng.
  • Mỗi kiểu sử dụng đất đai phải được xác định yêu cầu, thí dụ như về nước, dinh dưỡng, tránh xoái mòn;
  • Xây dựng bảng đồ đơn vị đất đai trên cơ sở các kết quả khảo sát và mô tả những đặc tính tự nhiên như khí hậu, độ dố, loại đất;
  • So sánh yêu cầu của các kiểu sử dụng đất đai với những đặc tính của đơn vị bản đồ đất đai để tiến đến phân hạng khả năng thích nghi đất đai.

Đất đai có thể bị giảm cấp từ “tốt” đến “xấu” không phân biệt loại sử dụng và quản lý nào đang được canh tác, vì mỗi loại sử dụng có yêu cầu riêng. Thí dụ:

  • Lúa có nhu cầu nước cao và hầu hết các giống lúa đều phát triển dưới điều liện ngập nước; không có những cây ngũ cốc nào khác có thể chịu đựng ngập nước trong suốt thời gian sinh trưởng.
  • Trà, mía, cây cọ dầu cần sự vận chuyển hữu hiệu đến nhà máy chế biến; hầu hết các cây không trồng cho tự cung tự cấp.
  • Đối với việc sử dụng cơ giới để làm đất thì bị giới hạn bởi sự hiện diện của đá hay sỏi lẫn trong đất, do đó khi sử dụng trâu, bò cày bằng tay thì sẽ có hiệu quả hơn.

Một kiểu sử dụng đất đai là loại sử dụng đất đai được mô tả dưới sản phẩm và phương cách quản lý. Khi khảo sát ở tỉ lệ nhỏ cấp quốc gia, mô tả kiểu sử dụng mang tính cách tổng quát thí dụ như “sản xuất lúa miến”, “bảo vệ rừng”. Ở cấp độ Tỉnh hay địa phương Huyện Xã thì phải mô tả riêng biệt và chi tiết hóa mô. Thí dụ như sản xuất sorghum thì làm đất bằng cơ giới hay bằng súc vật ? Có sử dụng phân bón không ? Việc bảo vệ rừng do các hạt kiểm lâm của nhà nước hay do công đồng dân chúng hay vùng đó phụ trách ?

Việc mô tả kiểu sử dụng đất đai phục vụ cho 2 mục đích. Đầu tiên đây là nền tảng cho việc xác định yêu cầu sử dụng đất đai của cây trồng. Thứ hai sự chuyên biệt hóa cách quản lý được sử dụng như là cơ sở cho các dịch vụ khuyến nông hay cho vấn đề cần thiết đầu tư trong quy hoạch.

Kiểu sử dụng đất đai đều được dựa trênnhững cải thiện có triển vọng mà đã xác định được trong bước 4. Những kiểu này có thể cải tiến để phù hợp với điều kiện sử dụng hiện tại, như trồng cây ăn trái hay đồng cỏ kết hợp với việc bảo vệ đất, hay có một số vấn đề mới được đưa vào trong vùng như các loại cây trồng có thu nhập cao.

Yêu cầu sử dụng đất đai được mô tả bằng chất lượng đất đai để cho được sản xuất bền vững. Chất lượng đất đai là những đặc trưng phức tạp của đất đai mà nó ảnh hưởng trực tiếp lên sử dụng đất đai. Thí dụ như khả năng hữu dụng của nước và dinh dưỡng, điều kiện cho rễ phát triển và nguy hại do xoái mòn. Hầu hết các chất lượng đất đai được xác định bằng những tác động nôi tại của các đặc tính đất đai là những đặc trưng có thể đo lường được của đất đai. Thí dụ như chất lượng đất đai “khả năng hữu dụng nước” thì được xác định từ sự cân bằng giữa nhu cầu nước và cung cấp nước. Nhu cầu về tiềm năng bốc hơi bề mặt đất và cây trồng; sự cung cấp nước có từ mưa, sự thấm lậu, trử nước trong đất và khả năng cây trồng có thể hấp thụ từ nước giữ trong đất.

Trong trường hợp “khả năng hữu dụng của nước”, có thể tính toán được giá trị lượng hóa đáng tin cậy cho chất lượng đất đai. Nhu cầu nước của các loại cây đa niên như mía, cao su thì lớn hơn rất nhiều hơn các loại cây có chu kỳ sinh trưởng ngắn như các loại cây đậu. Nước tồn trử trong đất khoảng 200mm thì có thể đủ cho vùng nhiệt đới nhưng lại không đủ cho các vùng có xảy ra hạn xảy ra theo từng mùa. Đối với các cây trồng chính, mô hình lượng hóa đã được phát triển để ước lượng năng suất cây trồng dưới những khoảng của các gía trị định tính.

Trong bất kỳ đề án riêng biệt nào, chỉ có một số chất lượng đất đai giới hạn được chọn lọc để sử dụng trong đánh giá đất đai. Tiêu chuẩn chọn lọc là:

  • Chất lượng phải ảnh hưởng lên sự phát triển và sản lượng hay chi phí của cây trồng. Vài chất lượng đất đai ảnh hưởng hầu hết các loại sử dụng đất đai thí dụ như ”khà năng hữu dụng nước”, hay một số chất lượng đất đai thì chỉ cho riêng biệt từng loại sử dụng như “điều kiện để chín” là chất lượng đất đai ảnh hưởng
  • Điều kiện tiên quyết của chất lượng đất đai là phải có trong vùng quy hoạch. Nếu một chất lượng đất đai đầy đủ cho mọi nơi thì không cần thiết phải đề cập đến. Thí dụ như hầu hết các cây trồng nhiệt đới thì mẫn cảm với sương muối, nhưng phần lớn các vùng nhiệt đới đất thấp trũng thì chất lượng đất đai "nguy hại do sương muối" thì không được đề cập đến.

Khi đã có những chất lượng đất đai đã chọn lọc, thì từ đó quyết định chọn ra các đặc tính đất đai để sử dụng cho việc đánh giá các chất lượng đất đai đó. Thí dụ chất lượng đất đai "nguy hại do xoái mòn" đòi hỏi những đặc tính đất đai như: cường độ mưa, gốc độ dốc, và những đặc tính đất.

Phải có sự thỏa thuận nhau trong việc chọn các đặc tính đất đai cho chất lượng đất đai, vì trong đó có một số đặc tính đất đai không liên quan trực tiếp một cách chính xác đến chất lượng đất đai nhưng là những thông tin hữu ích và thực tế. Ngoài ra cũng thấy những giới hạn trong việc chọn ra các đặc tính đất đai đang có sẳn hay phải thu thập nhanh chóng. Trong trường hợp nếu chưa có được các thông tin cần thiết của các đặc tính đất đai để mô tả các chất lượng đất đai quan trọng thì phải tiến hành dã ngoại khảo sát thực tế hoặc thực hiện các thí nghiệm để cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết đó.

Trong đánh giá đất đai đôi khi cũng thực hiện cho phân hạng một cách trực tiếp từ những đặc tính đất đai, thí dụ thay vì sử dụng "khả năng hửu dụng của nước" thì dùng trực tiếp đặc tính " lượng mưa"; hay sử dụng đặc tính "độ dốc" thay vì sử dụng "nguy hại do xoái mòn". Khi sử dụng những đặc tính đất đai này khi trong chất lượng đất đai chỉ được diễn tả bằng một đặc tính đất đai. Do đó, trong thực tế khi sử dụng đặc tính đất đai thay cho chất lượng đất đai thì phải thật cẩn thận thì kết quả cho ra sẽ tương tự nhau.

Trong bước 3, đơn vị đất đai được xác định như là cơ sở cho việc chẩn đoán các vấn đề. Do đó cần thiết phải xây dựng bản đồ chi tiết để mô tả các đặc tính đất đai, thí dụ như chia các hệ thống sử dụng đất đai thành các phần của đất đai riêng, hay đưa các đơn vị đất phức tạp thành những biểu loại đất. Những tiêu chuẩn để chọn ra các đơn vị đất đai tùy thuộc vào tỉ lệ bản đồ vùng nghiên cứu.

Khảo sát xây dựng bản đồ đơn vị đất đai tùy thuộc vào kế hoạch và yêu cầu sử dụng đất đai mà các thông tin và đặc tính đất thu được phải đáng tin cậy và hữu dụng. Đất, diều kiện về khí hậu nông nghiệp, liệt kê tài nguyên rừng và đồng cỏ là những nguồn số liệu chính cho việc xây dựng bản đồ này. Quy hoạch sử dụng đất đai cấp quốc gia thì khảo sát ở tỷ lệ khoảng 1/1.000.000 đến 1/500.000 cũng khá chi tiết, cấp tỉnh thì khoảng 1/100.000 đến 1/50.000.

Khảo sát nguồn tài nguyên tự nhiên đòi hỏi một số thời gian nhất định và sẽ làm chậm lại qui trình của quy hoạch. Tuy nhiên, những kinh nghiện trong thời gai đã qua cho thấy, những bước tiến của các đề án phát triển đất đai thiếu các nguồn số liệu tài nguyên đã được đến những thiệt hại khá trầm trọng cho cả về sản xuất lẫn bảo vệ tự nhiên. Trong thực tế, nghiên cứu và khảo sát nguồn tài nguyên của các kiểu sử dụng đất đai có thể tiến hành cùng lúc với sự thay đổi theo chu kỳ các thông tin.

Giá trị giới hạn là giá trị của một chất lượng đất đai hay đặc tính đất đai được xác định những giới hạng phân hạng của khả năng thích nghi đất đai cho một kiểu sử dụng cụ thể. Tiêu chuẩn phân hạng khả năng thích nghi đất đai của FAO được trình bày cụ thể trong Bảng 4.2.

Những quyết định đầu tiên và quan trọng nhất là chia tách ra đất đai thích nghi và không thích nghi. Những tiêu chuẩn quan trọng cho quyết định khả năng thích nghi đất đai cho một loại sử dụng chuyên biệt là tính bền vững và tỉ số lợi nhận/chi phí B/C.

  • Đất đai có thể hổ trợ sử dụng đất đai trên cơ sở bền vững. Điều này có nghĩa là sử dụng đất không làm suy thoái đất. Nhiều sự thay đổi trong sử dụng đất đai đã đưa đến sự suy thoái nguồn tài nguyên đất đai, thí dụ như khi khai phá rừng để trồng trà hay các cây trồng khác thì tạo nên sự mất đi môi trường sống của các loài hoang dã, đất và dinh dưỡng trong đất. Từ đó cho thấy mức độ tốt nhất của sản xuất phải được duy trì bằng hệ thống quản lý mới. Thí dụ như sự xoái mòn không thể kiểm soát thì hệ tống sử dụng đất đai mới được đưa vào sẽ không bền vững. Tùy theo kiểu sử dụng đất đai, giới hạn trên của chất lượng đất đai "nguy hại do xoái mòn" có thể được thiết lập theo mức độ dốc như sau:

* Đồn điền trà có trình độ quản lý tốt: 20o.

* Nông trang trồng trà nhỏ với trình độ quản lý trung bình: 15o.

* Cây trồng cạn sử dụng nước trời với kỷ thuật canh tác đơn giản: 8o.

  • Sử dụng đất đai phải sinh ra lợi nhuận với đầu tư khả thi. Người sử dụng đất đai phải có thu nhập ít nhất đủ sống từ đất đai. Những kinh nghiệm địa phương thường là những phần hướng dẫn tốt trong sử dụng. Phân tích tài chính theo các khả năng khác nhau để xem những khả năng nào thích hợp trong điều kiện nào.
Cấu trúc phân hạng thích nghi đất đai theo FAO
S Thích nghi Đất đai có thể hổ trợ xác định sử dụng đất đai và những lợi nhuận kèn theo đầu tư
S1 Thích nghi cao Đất đai không có giới hạng đáng kể. Bao gồm khoảng 20 - 30% tốt nhất của đất đai thích nghi S1. Đất đai không hoàn hảo nhưng có nhiều triển vọng phát triển
S2 Thích nghi trung bình Đất đai có khả năng thích nghi nhưng có một số giới hạn làm giảm năng suất hay vẫn giữ năng suất nhưng làm tăng đầu tư so với thích nghi S1
S3 Thích nghi kém Đất đai có những giới hạng khá trầm trọng, lợi nhuận bị giảm do phải tăng đầu tư để ổn đìng năng suất nên chi phí không có tính khả thi cao.
NN1N2 Không thích nghiKhông thích nghi tạm thờiKhông thích nghi vĩnh viễn Đất có nhiều giới hạn trầm trọng và khi sử dụng thì không mang tính kinh tế.Đất đai có giới hạng nhưng có thể cải tạo được và cho tính kinh tếĐất đai có giới hạn và không thể khắc phục cải tạo được
Thí dụ những hạng trong cấp chia thứ 3S2e Đất đai thích nghi trung bình S2 có giới hạn nguy hại do xoái mònS2w Đất đai thích nghi trung bình S2 có giới hạn do thiếu nước hữu dụngN2e Đất đai không thích nghi N có giới hạn nguy hại do xoái mòn

Yêu cầu sử dụng đất đai có thể được phân cấp thành các lớp thích nghi như thích nghi cao, thích nghi trung bình và thích nghi kém. Không thích nghi cũng chia ra thành không thích nghi tạm thời và không thích nghi vĩnh viễn. Xây dựng các giá trị giới hạng cho mỗi lớp thích nghi là phần mấu chốt chính trong đánh giá đất đai. Để thực hiện được các giá trị giới hạng này, những thông tin cần thiết phải được thu thập và phân tích cho các kiểu sử dụng đất đai riêng biệt trong từng vùng khác nhau và đồng thời cũng tiến hành các thí nghiệm ngoài đồng hay kinh nghiệm của người sử dụng đất đai để tìm ra các giới hạn cụ thể.

Những yêu cầu đất đai cho nhiều loại cây trồng có thể được kết hợp để đánh giá những yêu cầu của một kiểu sử dụng đất đai có nhiều loại cây trồng canh tác theo lối luân canh.

Giai đoạn đầu tiên trong đối chiếu là so sánh những yêu cầu của mỗi kiểu sử dụng đất đai với chất lượng đất đai của mỗi đơn vị đất đai. Cách đơn giản nhất là:

  • Kiểm tra các giá trị của chất lượng đất đai hay đặc tính đất đai đối lại với các phân hạng giới hạng;
  • Phân chia mỗi đơn vị đất đai vào các hạng thích nghi dựa theo tính giới hạng xấu nhất.

Đối với trường hợp có ít nhất một giới hạn đủ làm cho đất đai không thích nghi trong sử dụng, thì sử dụng giá trị giới hạn cao nhất là thích hợp.

Tuy nhiên sự đối chiếu có thể trở nên tiến trình rộng hơn là sự so sánh đơn thuần giữa yêu cầu sử dụng đất đai và chất lượng đất đai. Như trong trường hợp ban đầu khi so sánh thì cho thấy một đơn vị đất đai thì không thích nghi cho sử dụng thì kiểu sử dụng đất đai này có thể cải thiện để nâng cấp thích nghi lên. Do đó, nếu khả năng thích nghi thấp do việc gây xoái mòn thì có thể cải tiến kiểu sử dụng theo đường đồng cao độ hay các cách bảo vệ đất đai khác và cấp thích nghi sẽ được nâng lên. Do đó, với tính thích hợp của các kiểu sử dụng đất đai đối với các giới hạn hiện có của đất đai sẽ làm cho tổng thích nghi đạt được mức cao hơn. Ngoài ra còn có khả năng là cải thiện chất lượng đất đai để có thể phù hợp với những yêu cầu sử dụng đất đai từ đó cũng sẽ nâng cấp thích nghi cao hơn.

Một vài quyết định cho sử dụng đất đai thì chỉ cần đánh giá đất đai chất lượng, thí dụ như xác định một vùng cần thiết quan trọng cho việc trồng cây xuất khẩu. Tuy nhiên trong đánh giá đất đai cũng có đánh giá về số lượng và kinh tế tức là đòi hỏi phải có sự ước lượng về năng suất cây trồng, mức độ tăng trưởng của cây, hay những tính khác. Phương pháp này chĩ thích hiện được khi có đủ các số liệu hữu dụng về khả năng tăng trưởng của cây. Đồng thời ngày nay có một số mô hình máy tính cho việc ước lượng năng suất cây trồng theo các đặc tính tự nhiên định lượng. Kết quả này cho hiệu quả khi có được các số liệu đáng tin cây. Ngoày ra còn có thể bố trí các thí nghiệm ngoài đồng để lượng hóa các đặc tính đất đai đối với năng suất cây trồng đồng thời cũng tìm ra các cách quản lý đất đai thích hợp.

So sánh yêu cầu sử dụng đất đai của các kiểu sử dụng đất đai với những đặc tính của các đơn vị đất đai sẽ đưa đến phân hạng khả năng thích nghi đất đai. Khả năng thích nghi được chỉ định ra riêng biệt cho mỗi kiểu sử dụng đất đai, cho thấy đất đai thích nghi hay không thích nghi bao gồm luôn các hạng thích nghi khác nhau. Các yếu tố giới hạn cho các lớp thích nghi thấp sẽ được chỉ định. Ngày nay có thể sử dụng kỷ thuật Hệ THống Thông Tin Địa Lý GIS để sử lý phần phân hạng thích nghi đất đai bằng cách là tất cả các số liệu của yêu cầu sử dụng đất đai và các chất lượng đất đai được đưa vào máy tính và thông qua một phần mềm có thể sử lý các số liệu này để phân hạng thích nghi đất đai cho các kiểu sử dụng đất đai.

Kết quả của bước thứ 5 là:

  • Bản đồ phân hạng khả năng thích nghi đất đai, cho thấy được khả năng thích nghi của mỗi đơn vị đất đai cho mỗi kiểu sử dụng đất đai.
  • Mô tả các kiểu sử dụng đất đai này.

Kết quả mô tả của các kiểu sử dụng đất đao se cung cấp các thông tin thích hợp và có giá trị cho quy hoạch. Ở cấp quốc gia chỉ cần mô tả mô tả chung loại sử dụng chính. Ở cấp Tỉnh và huyện phải mô tả chi tiết từng kiểu sử dụng đất đai bao gồm luôn cả việc mô tả phần quản lý và đầu tư và ước đoán năng suất. Tiếp theo đó còn phải mô tả thêm về cách tồn trử, phân phối và thị trường của sản phẩm.

Trong tiến trình đánh giá của bước này hầu hết một số thông tin cung cấp sẽ không đầy đủ và hiệu quả, như sự chịu đựng của cây đến các yếu tố giới hạn thì chưa được biết một cách chính xác. Đặc biệt là trong các vùng vừa mới đưa các kiểu sử dụng mới và canh tác, thì cần thiết phải thiết lập tiến hành các thử nghiệm ở trạm trại hay hợp tác với nông dân để tìm ra các kết quả thích hợp cho việc khuyến cáo, mô tả và phân cấp thích nghi trong đánh giá đất đai. Những thiếu sót trong việc mô tả các đặc tính đất đai liên quan đến nguồn tài nguyên thiên nhiên thì phải được khảo sát. Thực tế thì không nên dời kế hoạch quy hoạch lại cho đến khi có kết quả khảo sát bổ sung hay các thử nghiệm, mà có thể tiến hành cùng lúc theo hai cách:

  • Ngoài quy hoạch sử dụng đất đai: Chú ý đến các nghiên cứu có được từ quốc gia, quốc tế hay các trường đại học với những kết quả nghiên cứu và những kiến thức cơ bản.
  • Trong quy hoạch sử dụng đất đai: Dựa trên cơ sở những ban ngành đang có của địa phương, thiết lập các thử nghiệm hay những hoạt động nghiên cứu khác như là một phần của quy hoạch sử dụng đất đai.

Ngoài ra trong các cách này cũng cần thiết phải áp dụng phương pháp "phản hồi" từ các thông tin thu được để có được các thông tin đáng tin cậy trong việc sử dụng đất đai bền vững trong tương lai.

0