25/05/2018, 10:12

Các nguyên tắc xác định thành phần các khối tài sản nợ

Các nguyên tắc sau đây không được chính thức thiết lập bằng những quy định rành mạch của luật viết, nhưng có cơ sở khoa học và cơ sở đạo lý, cũng như tỏ ra phù hợp với tinh thần chung của luật hiện hành về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. ...

Các nguyên tắc sau đây không được chính thức thiết lập bằng những quy định rành mạch của luật viết, nhưng có cơ sở khoa học và cơ sở đạo lý, cũng như tỏ ra phù hợp với tinh thần chung của luật hiện hành về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng.

Tài sản nợ gắn liền với tài sản có. Có những nghĩa vụ tài sản có thể do vợ chồng trực tiếp xác lập hoặc không, nhưng lại gắn liền với những tài sản có mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai có quyền sở hữu. Bởi vậy, nếu tài sản liên quan đi vào khối tài sản có riêng, thì nghĩa vụ gắn liền phải đi vào khối tài sản nợ riêng; nếu tài sản liên quan đi vào khối tài sản có chung, thì nghĩa vụ gắn liền phải đi vào khối tài sản nợ chung của vợ và chồng. Đây chỉ là sự vận dụng một trong những nguyên tắc chung của luật cơ bản: ubi emolumentum ibi onus - người nào thu được lợi ích, thì phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ gắn liền với lợi ích đó, nói nôm na là “người nào có ăn, thì có chịu”.

Ví dụ điển hình của việc áp dụng nguyên tắc này trong việc xác định hành phần tài sản nợ riêng là những nghĩa vụ gắn liền với các tài sản được chuyển giao bằng con đường thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc và những nghĩa vụ được xác lập trước khi kết hôn. Tài sản được thừa kế riêng và tài sản có trước khi kết hôn là các tài sản riêng, do đó, các nghĩa vụ xác lập trước khi kết hôn và những nghĩa vụ được chuyển giao bằng con đường thừa kế do áp dụng BLDS 2005 Điều 636 là những tài sản nợ riêng; nghĩa là nếu người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền có thể yêu cầu kê biên tài sản có riêng của người có nghĩa vụ để cưỡng chế việc thực hiện nghĩa vụ đó.

Ví dụ điển hình của việc áp dụng nguyên tắc này trong việc xác định thành phần khối tài sản nợ chung là các nghĩa vụ phát sinh từ những giao dịch dẫn đến việc tạo ra tài sản trong thời kỳ hôn nhân: vợ hoặc chồng giao kết việc mua một xe máy; xe máy mua được là tài sản chung, do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; vậy nghĩa vụ trả tiền mua xe máy phải đi vào khối tài sản nợ chung của vợ và chồng

Nguyên tắc này có lẽ được áp dụng cả trong trường hợp việc một tài sản đi vào khối tài sản chung là do hiệu lực của một hành vi trái pháp luật: một tài sản có được do tham ô đi vào khối tài sản chung do được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân; bởi vậy, khối tài sản chung phải trở thành vật bảo đảm cho nghĩa vụ bồi thường hoặc nghĩa vụ hoàn trả được ghi nhận trong một bản án xử phạt người có hành vi tham ô đó.
, nghĩa là nếu người mua không chịu trả tiền mua tài sản, thì người bán có quyền yêu cầu kê biên các tài sản chung của vợ chồng để nhận tiền thanh toán.

Quyền đến đâu, nghĩa vụ đến đó. Đối với khối tài sản chung, vợ (chồng) là người có quyền sở hữu chung. Ta sẽ thấy rằng trong nhiều trường hợp, vợ hoặc chồng, với tư cách là người có quyền sở hữu chung, có quyền tự mình định đoạt đối với tài sản chung. Một cách hợp lý, người có quyền định đoạt một tài sản cũng có thể dùng tài sản đó để thực hiện các nghĩa vụ do mình xác lập và nếu người này không tự giác thực hiện nghĩa vụ, thì người có quyền yêu cầu được phép kê biên và bán (đấu giá) tài sản đó trong khuôn khổ cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ. Điều đó cho phép nghĩ rằng những tài sản chung mà vợ hoặc chồng có quyền tự mình định đoạt có thể là vật bảo đảm cho việc thực hiện những nghĩa vụ tài sản chỉ do một người xác lập, dù không nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu của gia đình. Một trong những trường hợp điển hình, trong đó, giải pháp này được thừa nhận là trường hợp nghĩa vụ do một người xác lập, nhưng có tác dụng mang lại lợi ích vật chất cho khối tài sản chung: giao kết việc sửa chữa một tài sản chung bị hư hỏng; mua một tài sản trong thời kỳ hôn nhân;...

Nguyên tắc này, ta sẽ thấy, có tác dụng bổ khuyết cho nguyên tắc thứ nhất trên đây, trong điều kiện có những tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân và trở thành tài sản chung do quy định của pháp luật (như thu nhập do lao động), cũng như có những tài sản gắn liền với tài sản riêng, nhưng lại được coi là tài sản chung cũng do quy định của pháp luật (như hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài

Nghĩa vụ tương đối và nghĩa vụ tuyệt đối. Giả sử ta đã xác định được các nghĩa vụ do một người xác lập, nhưng lại mang tính chất chung và, cũng như các nghĩa vụ do vợ chồng cùng xác lập, có thể được bảo đảm thanh toán bằng tài sản chung cùng với tài sản riêng của người mắc nợ. Cũng có trường hợp nghĩa vụ do vợ và chồng cùng xác lập, nhưng lợi ích mang lại chỉ là lợi ích riêng của một người. Và có trường hợp nghĩa vụ do một người xác lập nhằm đem lại lợi ích riêng về tài sản cho người kia. Điều chắc chắn: người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình; người không có nghĩa vụ, một khi tự nguyện thực hiện nghĩa vụ vì lợi ích của người khác, cũng phải thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản của mình. Nhưng khối tài sản được hưởng lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ đó mới chính là người phải nhận lấy trách nhiệm tối hậu đối với việc thực hiện nghĩa vụ đó. Nếu việc thực hiện nghĩa vụ mang lại lợi ích cho khối tài sản chung của vợ chồng, mà khối tài sản riêng lại thanh toán cho người có quyền, thì khối tài sản chung phải bù đắp tổn thất cho khối tài sản riêng.

Quy tắc trên đây chỉ là sự vận dụng quy tắc chủ yếu của chế định “được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật” vào quan hệ tài sản giữa vợ và chồng: nếu không có sự thanh toán qua lại giữa các khối tài sản, thì sẽ có những khối tài sản được hưởng lợi và những khối tài sản chịu thiệt hại, một cách vô lý. Tất nhiên, không ai cấm các đương sự thoả thuận khác đi về việc chỉ định khối tài sản phải gánh chịu trách nhiệm sau cùng đối với việc thực hiện một nghĩa vụ tài sản nào đó. Tuy nhiên, nếu không có một thoả thuận như thế, thì các quy tắc thuộc chế định “được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật” sẽ được áp dụng.

Chủ nợ không biết và không cần biết khối tài sản nào được lợi do việc thực hiện nghĩa vụ; trong khi vợ và chồng lại biết. Bởi vậy, cần phân biệt nghĩa vụ trong quan hệ giữa người có nghĩa vụ và người có quyền (gọi là quan hệ đối ngoại hoặc nghĩa vụ tương đối) với nghĩa vụ trong quan hệ nội bộ của vợ và chồng (gọi là quan hệ đối nội hoặc nghĩa vụ tuyệt đối). Nghĩa vụ tương đối là nghĩa vụ được xem xét ở góc độ “thực hiện”: người có quyền yêu cầu (chủ nợ) phải nói chuyện với vợ hay chồng hay với cả hai và có quyền yêu cầu kê biên những tài sản nào ? Nghĩa vụ tuyệt đối là nghĩa vụ được xem xét về phương diện “đóng góp”: khối tài sản nào trong ba khối tài sản của gia đình phải gánh chịu nghĩa vụ một cách dứt khoát ?

0