25/05/2018, 09:18

Đảng lãnh đạo phong trào giải phóng dân tộc, khởi nghĩa giành chính quyền (1939-1945)

Chính sách thống trị thời chiến của Pháp - Nhật ở Đông Dương Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tiến công Ba Lan, hai ngày sau Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức lần lượt chiếm các ...

Chính sách thống trị thời chiến của Pháp - Nhật ở Đông Dương

Ngày 1-9-1939, phátxít Đức tiến công Ba Lan, hai ngày sau Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Phátxít Đức lần lượt chiếm các nước châu Âu. Đế quốc Pháp vào vòng chiến. Chính phủ Đalađiê (Daladier) thi hành một loạt biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong nước và phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Ngày 4-1-1940, Toàn quyền Đông Dương Catơru (George Catroux) tuyên bố: "Chúng ta đánh toàn diện và mau chóng vào các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải tiêu diệt cộng sản thì Đông Dương mới được yên ổn và trung thành với nước Pháp. Chúng ta không có quyền không thắng". Bộ máy đàn áp được tăng cường, lệnh thiết quân luật được ban bố. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, đặt Đảng Cộng sản Đông Dương ra ngoài vòng pháp luật, giải tán các hội ái hữu, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông người.

Tháng 6-1940, Đức tiến công Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức. Tháng 6-1941, Đức tiến công Liên Xô. Ở Đông Dương bọn thực dân Pháp thi hành một chính sách thời chiến rất phản động. Chúng phátxít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Hàng nghìn cuộc khám xét bất ngờ đã diễn ra khắp nơi. Chúng ban bố lệnh tổng động viên, thực hiện chính sách "kinh tế chỉ huy" nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Hơn 7 vạn thanh niên bị bắt sang Pháp để làm bia đỡ đạn. Chính sách phản động trên đây của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào một cảnh sống ngột ngạt về chính trị, bần cùng về kinh tế. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp và tay sai càng trở nên gay gắt hơn.

Tháng 9-1940, phátxít Nhật vào Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân ta, làm cho nhân dân ta phải chịu cảnh "một cổ hai tròng".

Chủ trương chiến lược mới của Đảng

Ngay khi Chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt động bí mật và chuyển trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng các đô thị. Ngày 29-9-1939, Trung ương Đảng gửi toàn Đảng một thông báo quan trọng nêu rõ: "Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng"

, 2. Sđd, tr. 756, 536.
.

Tháng 11 năm 1939, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định) do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Dự Hội nghị có Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần... Hội nghị nhận định: trong điều kiện lịch sử mới, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách nhất của cách mạng Đông Dương. "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập"2. Vì vậy, tất cả mọi vấn đề cách mạng, kể cả vấn đề ruộng đất cũng phải nhằm mục đích ấy mà giải quyết. Khẩu hiệu "cách mạng ruộng đất" phải tạm gác lại và thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô cao, chống cho vay lãi nặng, tịch thu ruộng đất của bọn thực dân đế quốc và bọn địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc đem chia cho dân cày nghèo.

Để thực hiện nhiệm vụ trung tâm ấy, Hội nghị chủ trương tập hợp mọi lực lượng chống đế quốc và tay sai vào mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi lấy tên là Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông Dương nhằm chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phátxít, đánh đổ đế quốc Pháp và bè lũ tay sai, giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương. Hội nghị chủ trương đem khẩu hiệu thành lập chính phủ Liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương thay cho khẩu hiệu thành lập chính quyền công nông.

Hội nghị nhấn mạnh Đảng phải kiên quyết tập trung mũi nhọn đấu tranh của quần chúng vào việc chống đế quốc và tay sai, chuẩn bị những điều kiện tiến tới làm cuộc bạo động cách mạng để giải phóng dân tộc. Hội nghị đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng về mọi mặt, tăng cường sự thống nhất ý chí và hành động, làm cho Đảng đủ sức gánh vác nhiệm vụ lịch sử nặng nề trước thời cuộc mới. Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương đánh dấu sự thay đổi cơ bản về chiến lược cách mạng và mở ra một thời kỳ đấu tranh mới, thời kỳ trực tiếp xúc tiến chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

Sau Hội nghị, nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt như Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Võ Văn Tần đều lần lượt bị bắt, nhưng Nghị quyết của Trung ương Đảng được truyền xuống nhiều cấp ủy Đảng.

Tháng 6-1940, phátxít Đức đánh chiếm nước Pháp. Nhân cơ hội đó, phátxít Nhật đã nhanh chóng xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, dâng Đông Dương cho Nhật. Vốn có truyền thống anh hùng bất khuất, nhân dân ta kiên cường và liên tiếp đứng dậy chống Pháp-Nhật. Ở một số địa phương, quần chúng cách mạng có khuynh hướng muốn khởi nghĩa vũ trang.

Ngày 27-9-1940, nhân khi quân Pháp ở Lạng Sơn bị Nhật đánh bại phải rút chạy qua đường Bắc Sơn-Thái Nguyên, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương nổi dậy khởi nghĩa, chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ Bắc Sơn. Cuộc khởi nghĩa tuy không phát triển rộng rãi, nhưng có tiếng vang lớn. Nó thức tỉnh đồng bào cả nước và đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân ta từ hình thức đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Sau cuộc khởi nghĩa, Đội du kích Bắc Sơn được thành lập.

Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng của quần chúng lan rộng ở nhiều nơi. Theo chủ trương của Xứ ủy Nam kỳ, một kế hoạch khởi nghĩa vũ trang được gấp rút chuẩn bị.

Tháng 11 năm 1940, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh). Tham dự Hội nghị có Trường Chinh, Phan Đăng Lưu, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh Hội nghị khẳng định nhiệm vụ trước mắt của Đảng là chuẩn bị lãnh đạo cuộc "võ trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập"

. Sđd, 2000, t.7, tr. 58.
.

Hội nghị quyết định duy trì và củng cố đội du kích Bắc Sơn và đình chỉ chủ trương phát động khởi nghĩa ở Nam Kỳ. Để kiện toàn cơ quan lãnh đạo của Đảng, Hội nghị cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Trường Chinh được phân công làm Quyền Bí thư Trung ương Đảng.

Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc đình chỉ kế hoạch khởi nghĩa ở Nam Kỳ chưa được triển khai thì cuộc khởi nghĩa đã nổ ra đêm 23-11-1940. Quân khởi nghĩa đánh chiếm nhiều đồn bốt và tiến công nhiều quận lỵ. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều địa phương và ban bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân, mở các phiên tòa để trừng trị bọn phản cách mạng... cuộc khởi nghĩa bị đế quốc Pháp và tay sai đàn áp đẫm máu và thất bại.

Khói lửa của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chưa tan, ngày 13-1-1941, một cuộc binh chiến đã nổ ra ở đồn Chợ Rạng thuộc huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An do Đội Cung chỉ huy. Nhưng cuộc nổi dậy này đã bị thực dân Pháp dập tắt nhanh chóng.

Ba cuộc nổi dậy trên đây là những đòn tiến công trực diện vào nền thống trị của thực dân Pháp. Đó là "những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu tranh đấu bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương"

. Sđd, tr. 109.
.

Tình hình quốc tế và trong nước diễn ra ngày càng khẩn trương. Nguyễn Ái Quốc quyết định trở về nước để trực tiếp lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng. Ngày 28-1-1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Người bí mật trở về Tổ quốc và ở lại Pác Bó thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Tại đây, Người bắt tay thí điểm chính sách đoàn kết dân tộc để cứu nước, mở lớp huấn luyện để đào tạo cán bộ, khẩn trương chuẩn bị cho hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tháng 5-1941, với tư cách đại diện cho Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Pác Bó (Cao Bằng). Dự Hội nghị có Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Phùng Chí Kiên, Hoàng Quốc Việt, cùng một số đại biểu của Xứ ủy Bắc Kỳ, Trung Kỳ và đại biểu tổ chức đảng hoạt động ở ngoài nước.

Hội nghị nhận định rằng Chiến tranh thế giới đang lan rộng, phátxít Đức đang chuẩn bị đánh Liên Xô và chiến tranh ở khu vực Thái Bình Dương sẽ bùng nổ. Chiến tranh sẽ làm cho các nước đế quốc bị suy yếu; Liên Xô nhất định thắng và phong trào cách mạng thế giới sẽ phát triển nhanh chóng, cách mạng nhiều nước sẽ thành công và một loạt nước xã hội chủ nghĩa sẽ ra đời.

Trên cơ sở phân tích thái độ chính trị của các giai cấp, tầng lớp Hội nghị nêu rõ ở nước ta mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc phátxít Pháp-Nhật. "Cần phải thay đổi chiến lược. Sự thay đổi về kinh tế, chính trị Đông Dương, sự thay đổi thái độ, lực lượng các giai cấp Đông Dương, buộc Đảng ta phải thay đổi chính sách cách mạng ở Đông Dương cho hợp với nguyện vọng chung của toàn thể nhân dân Đông Dương...". Nhiệm vụ đánh Pháp đuổi Nhật "không phải riêng của giai cấp vô sản và dân cày, mà là nhiệm vụ chung của toàn thể nhân dân Đông Dương", "cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp "dân tộc giải phóng", vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng"

. Sđd, tr. 118, 119.
. Hội nghị chủ trương: "Trong lúc này khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp - Nhật... nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được"
. Sđd, tr. 112, 113.
. Vì vậy, Hội nghị tiếp tục đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác khẩu hiệu "đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày" thay bằng các khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức.

Căn cứ vào hoàn cảnh mới của thế giới và Đông Dương, Hội nghị chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, cốt làm sao để thức tỉnh tinh thần dân tộc ở các nước Đông Dương. Trên tinh thần đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng: Việt Nam độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh và Cao Miên độc lập đồng minh. Trên cơ sở sự ra đời mặt trận ở mỗi nước, sẽ tiến tới thành lập mặt trận chung của ba nước là Đông Dương độc lập đồng minh. Hội nghị nhấn mạnh rằng các dân tộc trên bán đảo Đông Dương đều cùng chịu ách thống trị của đế quốc Pháp-Nhật, cho nên các dân tộc ở Đông Dương phải đoàn kết thống nhất lực lượng đánh đuổi kẻ thù chung. Song, nói đến vấn đề dân tộc lúc này là nói đến sự tự do, độc lập của mỗi dân tộc. Vì thế, Đảng phải hết sức tôn trọng và thi hành đúng chính sách "dân tộc tự quyết" đối với các dân tộc ở Đông Dương. Sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật thì "Các dân tộc sống trên cõi Đông Dương sẽ tuỳ ý theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành một dân tộc quốc gia tùy ý". "Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng"

, 2. Sđd, tr. 113, 131-132.
. Riêng đối với Việt Nam, Hội nghị chủ trương sẽ thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa theo tinh thần tân dân chủ.

Hội nghị quyết định phải xúc tiến ngay công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, coi đây là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và của nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Để đưa cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách mạng và hình thức tổ chức thích hợp, tiến hành xây dựng căn cứ địa. Nghị quyết Hội nghị ghi rõ: "Phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù..." . Trong những hoàn cảnh nhất định "với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn"2.

Hội nghị đặc biệt coi trọng công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công tác vận động quần chúng. Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức do Trường Chinh làm Tổng Bí thư.

Sau Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết thống nhất đánh đuổi Pháp-Nhật. Người viết: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng"

. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 198.
.

Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh sự thay đổi chiến lược cách mạng được vạch ra từ Hội nghị lần thứ sáu (tháng 11-1939). Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.

Đảng lãnh đạo phong trào chống Pháp - Nhật, chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang (1940-1945)

Từ giữa năm 1941 trở đi, tình hình trong nước và thế giới tiếp tục diễn ra rất căng thẳng. Tháng 6-1941, phát xít Đức bội ước, tiến công Liên Xô. Tháng 12-1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ. Ở Đông Dương, Pháp-Nhật tiếp tục đẩy mạnh khủng bố phong trào cách mạng quần chúng và đàn áp Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 26-8-1941, thực dân Pháp xử bắn Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai tại Hóc Môn, Gia Định. Lê Hồng Phong hy sinh trong nhà tù Côn Đảo. Nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng của Đảng và Mặt trận Việt Minh bị Pháp-Nhật bắt giam hoặc giết hại trong thời gian đó. Tháng 8-1942, Nguyễn Ái Quốc trên đường đi công tác ở Trung Quốc cũng bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt giữ hơn một năm (từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943). Trước quân thù tàn bạo, các chiến sĩ cộng sản đã nêu cao ý chí kiên cường bất khuất và tin tưởng vững chắc vào thắng lợi tất yếu của cách mạng.

Tháng 12-1941, Trung ương Đảng ra chỉ thị về công tác tổ chức, tăng cường kiện toàn các tổ chức đảng và phát triển tổ chức quần chúng bằng nhiều hình thức thích hợp. "Tổ chức của Đảng cần phải chặt chẽ và nghiêm ngặt. Còn những tổ chức quần chúng cần phải rộng rãi, nhẹ nhàng"

, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr. 218 và 229.
. Chỉ thị nhắc nhở đảng viên phải "tỉnh táo nhận xét tình thế, một khi thời cuộc biến đổi, những điều kiện mới xuất hiện, vấn đề giành chính quyền đã đặt ra trước mắt, thì phải lập tức thay đổi những hình thức tổ chức cho thích hợp với phong trào tranh đấu giải phóng đặng kịp thời triệu tập quần chúng chung quanh Đảng đánh đuổi quân cướp nước Pháp, Nhật"2.

Cũng trong tháng 12-1941, Trung ương ra thông cáo Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng. Thông cáo chỉ rõ các đảng bộ địa phương cần phải vận động nhân dân đấu tranh chống địch bắt lính, bắt phu, chống cướp đoạt tài sản của nhân dân, đòi tăng lương, bớt giờ làm cho công nhân, củng cố và mở rộng các đội tự vệ cứu quốc, thành lập các tiểu tổ du kích để tiến lên thành lập đội du kích chính thức, mở rộng cơ sở quần chúng và lực lượng vũ trang ở các khu du kích tiến lên phát động khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.

Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng và các chỉ thị tiếp theo, các cấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây dựng tổ chức đảng và các tổ chức cứu quốc của quần chúng, phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh của quần chúng ở cả nông thôn và đô thị, xây dựng các căn cứ địa cách mạng, tiến hành vũ trang cho quần chúng cách mạng, củng cố và phát triển lực lượng du kích.

Ngày 25-10-1941 Việt Minh công bố Tuyên ngôn với đồng bào cả nước: "Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời". Bản Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm có 44 điều cụ thể để thực hiện hai điều cơ bản mà toàn thể đồng bào mong ước là làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dân Việt Nam được sung sướng tự do. Chương trình Việt Minh vừa ích nước vừa lợi dân, nên được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Cơ sở Việt Minh lần lượt được xây dựng ở nhiều địa phương. Tại Cao Bằng, có nhiều xã và tổng hầu như toàn dân đã tham gia vào hội cứu quốc. Năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập đội vũ trang ở Cao Bằng để thúc đẩy việc phát triển cơ sở chính trị và chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang, nhất là ở các huyện Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, phong trào vũ trang toàn dân phát triển mạnh mẽ. Cao Bằng đã trở thành một căn cứ địa cách mạng, một địa bàn điển hình về xây dựng và phát triển lực lượng, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân.

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Đội du kích Bắc Sơn được duy trì và đổi tên là Cứu quốc quân. Để chống lại âm mưu càn quét của thực dân Pháp, Thường vụ Trung ương Đảng chỉ đạo Cứu quốc quân bám sát quần chúng, kiên trì cuộc chiến đấu chống địch khủng bố, giữ gìn lực lượng, cổ vũ phong trào quần chúng trong cả nước. Sau 8 tháng hoạt động gian khổ, một bộ phận Cứu quốc quân vượt ra khỏi vòng vây của địch, rút lên biên giới phía Bắc, nhưng giữa đường đi bị địch phục kích, Cứu quốc quân bị tổn thất nặng. Bộ phận Cứu quốc quân còn lại đã phân tán lực lượng hoạt động tại chỗ, tích cực mở rộng địa bàn, vận động quần chúng, phát triển cơ sở chính trị.

Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị và từng bước xây dựng lực lượng vũ trang, thành lập căn cứ địa cách mạng, Đảng tích cực chăm lo xây dựng Đảng và củng cố tổ chức đảng, khắc phục bè phái, làm cho hàng ngũ Đảng được thống nhất và trong sạch. Để cung cấp cán bộ cho phong trào yêu nước đang phát triển, Đảng mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày nhằm đào tạo cán bộ về chính trị, quân sự, binh vận. Thực hiện chỉ thị của Đảng, nhiều cán bộ đảng viên bị địch bắt giam trong các nhà tù Sơn La, Chợ Chu, Buôn Ma Thuột đã vượt ngục về địa phương tham gia lãnh đạo phong trào.

Từ sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phong trào cách mạng nước ta đang trên đà phát triển. Trên thế giới, quân đội Xô viết đang chuyển sang phản công quân Đức trên nhiều mặt trận và giành thắng lợi lớn trong trận Xtalingrát (2-1943). Phong trào chống phátxít của nhân dân các nước Pháp, Italia, Nam Tư, Bungari, Tiệp Khắc

Nay tách thành hai nước: Séc và Xlôvakia.
, Anbani, Trung Quốc, Triều Tiên, Miến Điện
* Nay là Mianma.
*, Philíppin đang trên đà phát triển. Điều kiện khách quan thuận lợi cho các dân tộc nổi dậy giành độc lập ngày càng đến gần.

Tháng 2-1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) bàn việc mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến việc chuẩn bị khởi nghĩa. Hội nghị nhận xét rằng phong trào Việt Minh đã phát triển, song phong trào ở đô thị còn yếu. Phong trào công nhân không được mạnh và rộng rãi tương xứng với vị trí của giai cấp đó, đồng thời còn thiếu một "phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh niên học sinh"

. Sđd, tr. 290.
.

Hội nghị đề ra những biện pháp cụ thể nhằm phát triển phong trào quần chúng rộng rãi và đều khắp, đặc biệt chú trọng đến công tác công vận, xây dựng cơ sở cách mạng trong công nhân, nhất là ở các thành phố lớn, nhằm chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa trong tương lai có thể nổ ra ở những trung tâm đầu não của quân thù, làm cho chúng bị tê liệt, bảo đảm cho cuộc khởi nghĩa lan rộng trong cả nước. Đồng thời phải chú trọng mở rộng phong trào cách mạng trong thanh niên, học sinh, trí thức, nhằm làm cho cuộc khởi nghĩa mang tính chất toàn dân.

Hội nghị chủ trương xúc tiến cuộc vận động thành lập Mặt trận dân chủ chống Nhật ở Đông Dương để khoét sâu thêm mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù bằng cách tranh thủ bắt tay có điều kiện với những ngoại kiều ở Đông Dương có tinh thần chống phátxít Pháp-Nhật, chủ yếu là những người Pháp thuộc phái Đờ Gôn và Hoa kiều chống Nhật.

Nhận định về chiều hướng phát triển của phong trào cách mạng dưới ách thống trị của Pháp-Nhật, Hội nghị cho rằng "phong trào cách mạng Đông Dương có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao". Hội nghị quyết định phải khẩn trương hơn nữa trong việc chuẩn bị khởi nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám (tháng 5-1941) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phải "đặt mình vào tình thế khẩn cấp", coi việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại"

. Sđd, tr. 298.
. Hội nghị vạch ra một kế hoạch thúc đẩy việc chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa sắp đến.

Về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị nhấn mạnh rằng chính sách lập mặt trận của Đảng càng rộng thì vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải vững chắc. Cho nên cần phải kịp thời củng cố Đảng về mọi phương diện, làm cho Đảng được mạnh mẽ và trong sạch, phải đề phòng bọn khiêu khích chui vào Đảng, nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật của đảng viên.

Từ năm 1943 đến 1945, phong trào cách mạng phát triển ngày càng mạnh và đều khắp. Ở Bắc Kỳ, hầu hết các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo xây dựng được các tổ chức cứu quốc ở hầu khắp các vùng ở nông thôn và đô thị. Tại Hà Nội, tổ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy, trường học, đường phố. Nhiều cuộc bãi công đòi tăng lương của công nhân đã nổ ra ở Hà Nội, Hải Phòng, Uông Bí, Nam Định... Phong trào đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu, chống bắt phu, bắt lính, chống thu thóc tạ... lôi cuốn nông dân tham gia ngày càng đông đảo. Phong trào Việt Minh ở các tỉnh miền Trung cũng trên đà phát triển mạnh trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị...

Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng phục hồi, hệ thống tổ chức đảng được xây dựng lại ở nhiều địa phương. Tổ chức Việt Minh đã có cơ sở ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh. Hàng chục cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra tại Sài Gòn.

Phong trào thanh niên, học sinh, trí thức ở thành phố bắt đầu phát triển khiến cho bọn đế quốc phátxít Pháp-Nhật lo sợ. Bên cạnh thủ đoạn bạo lực đàn áp, chúng tích cực dùng nhiều thủ đoạn chính trị, văn hóa rất xảo quyệt để ngăn chặn phong trào thanh niên, trí thức. Phátxít Nhật ra sức tuyên truyền thuyết "Đại Đông Á", thuyết "Khu vực thịnh vượng chung". Chúng mở trường dạy tiếng Nhật, tổ chức triển lãm, chiếu phim, phát hành báo chí gây tâm lý sợ Nhật và phục Nhật.

Đảng đã đẩy mạnh hoạt động chống lại những nọc độc văn hóa tư tưởng phản động của Pháp-Nhật và tay sai, tuyên truyền đường lối cứu nước của Đảng, cổ vũ quần chúng lên trận tuyến cách mạng. Báo chí cách mạng là một vũ khí sắc bén trong công tác này. Đảng và Việt Minh cho xuất bản các báo: Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền phong, Kèn gọi lính, Quân giải phóng, Kháng địch, Độc lập, v.v.. Trong các nhà tù các chiến sĩ cách mạng cũng cho ra báo Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hòa Bình), Thông reo (Chợ Chu), Dòng sông Công (Bá Vân)...

Trên văn đàn công khai lúc đó xuất hiện xu hướng cải lương, bi quan, yếm thế. Một số tác phẩm tiến bộ, thể hiện tinh thần yêu nước, nhưng chưa có phương hướng đấu tranh rõ rệt. Đảng chủ trương phái cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa để gây một phong trào văn hóa tiến bộ, sử dụng các hình thức công khai hoặc nửa công khai để tập hợp các nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ...

Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam. Bản đề cương khẳng định văn hóa là một trong ba mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nhiệm vụ của các nhà văn hóa yêu nước và cách mạng là phải chống lại văn hóa nô dịch, ngu dân của bọn phátxít và tay sai, tiến tới xây dựng trong tương lai một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.

Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn hóa vào trận tuyến đấu tranh vì một nền văn hóa mới, vì sự nghiệp chống Pháp-Nhật, giành độc lập, tự do.

Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước và tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam (tháng 6-1944), một chính đảng của tư sản dân tộc và trí thức yêu nước, tiến bộ. Đảng này tham gia Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động, góp phần mở rộng thêm khối đại đoàn kết dân tộc, làm thất bại âm mưu chia rẽ và lôi kéo tư sản dân tộc và trí thức của phátxít Nhật và tay sai.

Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt, lính Pháp và lê dương. Từ Trung ương đến các địa phương đều có tổ chức ban binh vận. Đảng đã cử người liên lạc với những người thuộc phái tả của Đảng Xã hội Pháp trong quân đội lê dương, trong công chức Pháp ở Việt Nam và cả những người Pháp thuộc phái Đờ Gôn ở Đông Dương để thực hiện một liên minh chống phátxít. Song do bản chất thực dân ngoan cố và sợ Nhật của những người theo phái Đờ Gôn nên chủ trương liên minh đó của Đảng không có kết quả.

Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị, Đảng rất chú trọng xây dựng và phát triển các căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang. Ở trung tâm Bắc Sơn-Vũ Nhai, Cứu quốc quân tích cực tiến hành công tác tuyên truyền vũ trang, gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ ra nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Yên... lực lượng cứu quốc quân phát triển thêm một trung đội.

Về phía trung tâm Cao Bằng, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ. Khu căn cứ được mở rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Các đoàn xung phong Nam tiến hoạt động mạnh, phát triển cơ sở chính trị quần chúng trong các dân tộc thiểu số, đánh thông đường liên lạc bằng một hành lang chính trị nối liền hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn-Võ Nhai (cuối năm 1943), chuẩn bị cho sự ra đời khu giải phóng Việt Bắc về sau.

Từ giữa năm 1944, tình hình trong nước và trên thế giới phát triển mau lẹ. Cuộc chiến tranh chống phátxít sắp bước vào giai đoạn kết thúc, Quân đội Xôviết đang phản công quân Đức trên nhiều mặt trận. Căn cứ vào chủ trương của Đảng, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị Sửa soạn khởi nghĩa và ra lời kêu gọi nhân dân "sắm vũ khí! đuổi kẻ thù chung!". Không khí chuẩn bị cho khởi nghĩa sôi nổi trong khu căn cứ.

Tháng 10-1944, đế quốc Pháp mở cuộc càn quét lớn vào Vũ Nhai (Thái Nguyên), cấp ủy đảng địa phương phát động quần chúng khởi nghĩa ngoài kế hoạch của Trung ương, làm cho lực lượng cách mạng ở đây gặp nhiều khó khăn, có nguy cơ bị tổn thất lớn. Ban Thường vụ Trung ương Đảng kịp thời phê phán hoạt động thiếu cân nhắc, làm bộc lộ lực lượng quá sớm, tự hãm mình vào thế bị cô lập. Trung ương Đảng quyết định phải chuyển hướng hoạt động ngay để bảo toàn lực lượng.

Ở Cao - Bắc - Lạng, trong không khí cách mạng sục sôi, cấp ủy địa phương gấp rút chuẩn bị phát động chiến tranh du kích trong phạm vi ba tỉnh. Lúc đó, Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở lại Cao Bằng. Người kịp thời quyết định đình chỉ việc phát động chiến tranh du kích trên quy mô rộng lớn đó vì điều kiện trong cả nước chưa chín muồi, giúp cho Cao - Bắc - Lạng tránh khỏi những tổn thất lớn. Người chỉ rõ: "Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới. Nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào đi tới. Nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. Phải tìm một phương thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên"

. Dẫn theo Võ Nguyên Giáp: Từ nhân dân mà ra, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1969, tr. 132.
.

Tiếp đó, Người ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, xác định nguyên tắc tổ chức, phương thức hoạt động và phương châm tác chiến của lực lượng vũ trang, hoạt động theo phương châm chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến. Người nhấn mạnh: "Cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến của toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân". Đội có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sắp đến. Với vai trò là đội quân đàn anh, đội còn có nhiệm vụ dìu dắt các đội vũ trang của địa phương, giúp đỡ việc huấn luyện và trang bị vũ khí làm cho các đội này cùng trưởng thành và cùng phối hợp hành động trong hoạt động quân sự. Đội phải vận dụng lối đánh du kích mau lẹ, linh hoạt, bí mật, bất ngờ. Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân của Hồ Chí Minh có giá trị như một cương lĩnh quân sự tóm tắt của Đảng.

Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp tổ chức ra đời ở huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Mấy ngày sau, đội đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phai Khắt (ngày 25-12-1944) và Nà Ngần (ngày 26-12-1944) thuộc tỉnh Cao Bằng. Phát huy thắng lợi đầu tiên, đội đẩy mạnh vũ trang tuyên truyền, kết hợp chính trị và quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ Cao - Bắc - Lạng, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng quần chúng trong cả nước.

Phong trào cách mạng mở rộng đòi hỏi tăng cường đội ngũ cán bộ lãnh đạo và phát triển đảng viên. Đảng bí mật tổ chức cho một số cán bộ, đảng viên của Đảng đang bị giam trong các nhà tù vượt ngục, trở về địa phương hoạt động. Ngày 24-5-1944, Hoàng Văn Thụ, một cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng bị địch xử bắn. Đảng quyết định kết nạp lớp đảng viên Hoàng Văn Thụ. Nhiều người ưu tú trong phong trào Việt Minh được kết nạp vào Đảng.

Tình hình thời cuộc lúc này rất khẩn trương. Tháng 10-1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào toàn quốc, thông báo chủ trương của Đảng về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân. Bức thư nêu rõ: "Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!"

. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 505, 506.
.

Đảng lãnh đạo cao trào kháng Nhật cứu nước và tổng khởi nghĩa giành chính quyền (tháng 3-1945 - tháng 8-1945)

Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô đang truy kích phátxít Đức trên chiến trường châu Âu, giải phóng nhiều nước ở Đông Âu và tiến như vũ bão về phía Béclin. Số phận của phátxít Đức sắp kết liễu. Ở Tây Âu, Anh - Mỹ đã mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất Pháp và tiến về phía Tây nước Đức quốc xã. Công nhân Pari nổi dậy, nước Pháp được giải phóng, Chính phủ Đờ Gôn về Pari.

Ở mặt trận Thái Bình Dương, phátxít Nhật cũng rất nguy khốn. Quân Anh đánh lùi quân Nhật ở Miến Điện. Quân Mỹ đổ bộ lên Philíppin. Đường biển đến các căn cứ ở Đông Nam Á của Nhật bị quân Đồng minh khống chế. Sống chết Nhật cũng phải giữ lấy con đường bộ duy nhất nối liền từ Mãn Châu xuyên qua Đông Dương xuống Đông Nam Á. Nhật rất lo sợ về việc quân Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương, cắt quân Nhật trên lục địa Viễn Đông thành hai khúc.

Lực lượng thực dân Pháp theo phái Đờ Gôn ở Đông Dương ngóc đầu dậy, hoạt động ráo riết, chuẩn bị đón thời cơ khi quân Đồng minh đổ bộ lên Đông Dương sẽ đánh Nhật nhằm khôi phục lại quyền thống trị của chúng trên bán đảo này. Mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ở Đông Dương càng trở nên gay gắt. "Cả hai quân thù Nhật- Pháp đều đang sửa soạn tiến tới chỗ tao sống mày chết, quyết liệt cùng nhau"

. Lê Duẩn: Ngọn cờ giải phóng, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1955, tr. 46.
.

Tình thế thất bại của phátxít Nhật ở Thái Bình Dương buộc chúng phải làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương và trừ mối họa bị quân Pháp đánh vào sau lưng khi quân Đồng minh đổ bộ lên Đông Dương, đồng thời giữ cầu nối liền các thuộc địa của chúng. Ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng, lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Quân Pháp chống cự rất yếu ớt và nhanh chóng đầu hàng.

Dự đoán trước tình hình Nhật sắp sửa lật Pháp ở Đông Dương, Tổng Bí thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), ngay trước lúc Nhật nổ súng. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Toàn bộ những nhận định cơ bản về tình hình và chủ trương mới của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng được thể hiện tập trung trong bản Chỉ thị lịch sử đó.

Bản chỉ thị nhận định rằng cuộc đảo chính của Nhật lật đổ Pháp để độc chiếm Đông Dương đã tạo ra một cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có những cơ hội tốt làm cho những điều kiện tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi (chính trị khủng hoảng do cuộc đảo chính gây ra, nạn đói ghê gớm và chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt).

Chỉ thị xác định kẻ thù cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phátxít Nhật, vì vậy phải thay khẩu hiệu "đánh đuổi phátxít Nhật-Pháp" bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phátxít Nhật" và đưa ra khẩu hiệu "thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương" để chống lại chính phủ bù nhìn Việt gian thân Nhật.

Chỉ thị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Mọi hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa nhằm động viên mau chóng quần chúng lên trận địa cách mạng, tập dượt quần chúng tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Muốn vậy, phải thực hiện những hình thức tuyên truyền và đấu tranh cao hơn và mạnh bạo hơn như tuyên truyền xung phong có vũ trang, biểu tình tuần hành thị uy, bãi công chính trị, tổ chức quần chúng đánh phá các kho thóc để giải quyết nạn đói, đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ cứu quốc, tổ chức bộ đội, du kích, thành lập căn cứ địa cách mạng, phát động du kích chiến tranh ở những nơi có điều kiện.

Phương châm đấu tranh lúc này là phát động chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa. Đó là phương pháp duy nhất của dân tộc để đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân Nhật và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa một khi có đủ điều kiện.

Chỉ thị cũng dự kiến những hoàn cảnh thuận lợi để thực hiện tổng khởi nghĩa như khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật đã bám chắc, tiến sâu trên đất ta và quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng minh để phía sau sơ hở. Cũng có thể là cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật được thành lập, hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh Nhật mất tinh thần. Chỉ thị còn nêu rõ rằng, dù sao ta vẫn không được ỷ lại vào người và tự bó tay mình trong khi tình thế biến chuyển thuận lợi, mà phải nêu cao tinh thần dựa vào sức mình là chính.

Bản chỉ thị ngày 12 -3-1945 thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh với khẩu hiệu "Đánh đuổi phátxít Nhật" thay cho khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật, Pháp" trong cao trào kháng Nhật, cứu nước, trực tiếp dẫn đến thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.

Từ giữa tháng 3-1945 trở đi, cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú về nội dung và hình thức.

Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.

Ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng ở nhiều làng. Chính quyền cách mạng tịch thu ruộng đất thuộc đồn điền Táctaranh (Tartarin), chia cho nông dân nghèo và những gia đình có công với cách mạng. Đội du kích Bắc Giang được thành lập. Ở Hưng Yên, đội tự vệ chiến đấu đánh chiếm đồn Bần, thu toàn bộ vũ khí của địch. Ở Quảng Ngãi, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ được thành lập. Đây là đội vũ trang thoát ly đầu tiên do Đảng tổ chức và lãnh đạo ở miền Trung.

Hàng ngàn chiến sĩ cách mạng bị địch giam giữ trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò, Buôn Ma Thuột, Hội An... nhân cơ hội Nhật-Pháp bắn nhau đã vượt ngục ra ngoài hoạt động.

Ngày 16 tháng 4 năm 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc tổ chức Uỷ ban giải phóng Việt Nam.

Giữa lúc cao trào kháng Nhật cứu nước đang cuồn cuộn dâng lên, ngày 15-5-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang), do Trường Chinh chủ trì. Hội nghị nhận định: tình thế đã đặt nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Hội nghị chủ trương thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân, xây dựng các chiến khu trong cả nước, phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang, mở trường đào tạo cán bộ quân sự và chính trị.

Tháng 5-1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào (Tuyên Quang). Người chỉ thị phải gấp rút chuẩn bị Đại hội quốc dân. Người cũng chỉ thị thành lập "khu giải phóng". Ngày 4-6-1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Ủy ban lâm thời khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.

Các cuộc nổi dậy của quần chúng và các cuộc tiến công của các lực lượng vũ trang diễn ra liên tiếp. Chính quyền cách mạng ở nhiều địa phương lần lượt ra đời. Nhiều chiến khu mới được xây dựng như chiến khu Vần - Hiền Lương ở vùng giáp giới hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái, chiến khu Đông Triều (Quảng Yên), chiến khu Hoà - Ninh - Thanh, chiến khu Vĩnh Tuy và Đầu Rái (Quảng Ngãi)... Các căn cứ địa cách mạng là bàn đạp để phát triển lực lượng cách mạng, là hậu phương của các lực lượng vũ trang, là ngọn cờ hiệu triệu và cổ vũ phong trào cách mạng cả nước.

Thực hiện khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, mở rộng căn cứ địa cách mạng để thúc đẩy mạnh mẽ việc chuẩn bị lực lượng tiến lên tổng khởi nghĩa, là điểm độc đáo và sáng tạo của Đảng ta trong tiến trình lãnh đạo chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang ở một nước vốn là thuộc địa.

Cùng với khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận, thực hiện chiến tranh du kích ở những nơi có điều kiện, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ. Trong toàn quốc đã nổ ra nhiều cuộc míttinh, biểu tình, diễn thuyết xung phong ở các chợ, bến đò, xí nghiệp, trường học, rạp chiếu bóng. Ở nhiều địa phương, quần chúng cách mạng đã cảnh cáo bọn quan lại, tổng lý cường hào cố ý chống lại cách mạng, trừng trị bọn Việt gian. Ở nhiều thị xã, thành phố và ngay cả Hà Nội, các đội danh dự Việt Minh ra sức hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác trừ gian, táo bạo trừ khử một số tên tay sai đắc lực của địch, kích thích tinh thần cách mạng của quần chúng.

Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng ở các tỉnh Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Hơn 2 triệu đồng bào chết đói. Hàng triệu người khác sống ngắc ngoải. Đó là hậu quả của chính sách bóc lột, vơ vét tàn bạo của bọn phátxít Nhật - Pháp.

Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kịp thời đề ra khẩu hiệu "phá kho thóc, giải quyết nạn đói". Chủ trương đó đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của quần chúng. Trong một thời gian ngắn, Đảng đã động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng, "thổi bùng ngọn lửa căm thù trong đông đảo nhân dân và phát động quần chúng vùng dậy với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền"

. Sđd, tr. 47.
.

Cao trào chống Nhật, cứu nước không những động viên được đông đảo quần chúng công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ, học sinh, viên chức mà còn lôi kéo cả tư sản dân tộc và một số địa chủ nhỏ. Binh lính, cảnh sát của chính quyền Trần Trọng Kim cũng dao động, một số ngả theo cách mạng hoặc ủng hộ cách mạng. Một số lý trưởng, chánh tổng, chánh phó tổng, tri phủ, tri huyện và cả một số tỉnh trưởng cũng tìm cách liên lạc với Việt Minh... Bộ máy chính quyền thống trị nhiều nơi tê liệt.

Các tổ chức cứu quốc, các đội tự vệ cứu quốc được thành lập ở nhiều thôn xóm và phố phường. Khắp nơi quần chúng nô nức tự vũ trang. Không khí sửa soạn tiến nhanh tới khởi nghĩa sục sôi trong cả nước.

Trong thời kỳ gấp rút chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Đảng rất coi trọng cuộc đấu tranh để thống nhất đường lối, tăng cường sự nhất trí về tư tưởng và hành động trong Đảng. Trung ương Đảng đã phát hiện kịp thời và phê phán nghiêm khắc quan điểm mơ hồ, lệch lạc chớm nở trong một số cán bộ, đảng viên ở miền Trung khi nêu chủ trương là lợi dụng và cải tổ chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, nuôi hy vọng giành độc lập bằng con đường thương lượng với Nhật. Chủ trương đó không nhằm đúng vào kẻ thù chính trước mắt cần tập trung đánh đổ là phátxít Nhật và bè lũ tay sai, đi chệch mục tiêu khởi nghĩa giành chính quyền do Đảng vạch ra. Trung ương Đảng cũng phê phán tư tưởng "tả" khuynh và hữu khuynh của một số cán bộ đảng viên hoạt động ở Nam Kỳ, trong các nhóm Tiền phong và Giải phóng; kêu gọi các đồng chí đó hãy kíp gạt bỏ thành kiến, đi vào đường lối của Đảng.

Đồng thời Trung ương Đảng kiên quyết vạch trần những thủ đoạn lừa bịp của phátxít Nhật và các đảng phái chính trị tay sai Nhật, những luận điệu khiêu khích phá hoại của bọn tơrốtkít, làm cho cán bộ và nhân dân thấy rõ đối với Nhật chỉ có một cách là toàn dân đoàn kết, cầm vũ khí chiến đấu, mới tự quyết định được số phận của mình trong những ngày khởi nghĩa sắp đến.

Chiến tranh thế giới thứ hai đi đến hồi kết thúc. Ở châu Âu, tháng 5-1945, Quân đội Liên Xô đã tiêu diệt hoàn toàn bọn phátxít Đức tại sào huyệt của chúng và buộc chúng đầu hàng vô điều kiện. Tại châu Á, tháng 8-1945, Quân đội Liên Xô tiến công như vũ bão, đánh bại hơn 1 triệu quân Quan Đông tinh nhuệ của Nhật tại Mãn Châu. Chính phủ Nhật đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh không điều kiện. Chính phủ Trần Trọng Kim do hoang mang cực độ. Kẻ thù của dân tộc Việt Nam gục ngã. Tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện. Tuy nhiên quân đội các nước đế quốc với danh nghĩa Đồng minh chuẩn bị vào Đông Dương tước vũ khí phátxít Nhật. Vì thế vấn đề giành chính quyền được đặt ra như một cuộc chạy đua nước rút với quân Đồng minh. Phải gấp rút hành động, không được do dự, lừng chừng. Trước tình thế vô cùng khẩn cấp và thuận lợi đó, Đảng kịp thời quyết định tổng khởi nghĩa.

Ngày 12-8-1945 Uỷ ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu. Ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Tân Trào, gồm đại biểu các đảng bộ trong nước và một số đại biểu hoạt động ở nước ngoài. Hội nghị quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành lấy chính quyền từ tay phátxít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Khẩu hiệu đấu tranh lúc này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân dân! Những nguyên tắc để chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời, phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở các đô thị) trước khi quân Đồng minh vào, thành lập uỷ ban nhân dân ở những nơi đã giành được quyền làm chủ...

Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền. Về đối nội, sẽ lấy 10 chính sách lớn của Việt Minh làm chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng. Về đối ngoại, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn bớt thù, triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp - Anh và Mỹ - Tưởng, hết sức tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong một lúc; phải tranh thủ sự ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân các nước trên thế giới, nhất là nhân dân Pháp và nhân dân Trung Quốc.

Hội nghị còn quyết định các vấn đề về công tác vận động quần chúng, đào tạo, sử dụng và phân phối cán bộ và các vấn đề về công tác Đảng. Tại Hội nghị này, Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bổ sung thêm một số uỷ viên.

Tiếp sau Hội nghị toàn quốc của Đảng, ngày16-8-1945 Đại hội quốc dân cũng họp tại Tân Trào. Về dự Đại hội có khoảng 60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng cứu quốc, các dân tộc, các tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại hội nhất trí tán thành quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Sự có mặt của Hồ Chí Minh đem lại cho các đại biểu dự Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội quốc dân một niềm tin tưởng vững chắc vào thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa và tiền đồ tươi sáng của cách mạng nước ta. Ngay sau Đại hội quốc dân, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước:

"Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta... Chúng ta không thể chậm trễ.Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!"

. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.3, tr. 554.
.

Hưởng ứng chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và lời hiệu triệu của Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước, triệu người như một nhất tề nổi dậy, với tinh thần cách mạng tiến công liên tục và dũng cảm, với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập.

Từ ngày 14-8-1945 trở đi, các đơn vị Giải phóng quân lần lượt tiến công các đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái, v.v., hỗ trợ quần chúng tiến lên giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Ngày 16-8-1945, một đơn vị Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy kéo về bao vây, tiến công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên. Cũng từ ngày 14 đến ngày 18-8 ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và miền Nam, quần chúng cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và huyện. Ngày 18 tháng 8 nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh,

0