24/05/2018, 23:04

Đặc đIểm FDI hiện nay và tác động của tự do hoá

Nền thương mại thế giới trong nhiều thập kỷ qua đã có sự tăng trưởng rất lớn về quy mô trao đổi, phạm vi hoạt động, các hình thức tiến hành và số quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế cũng ngày một lớn hơn, theo chiều hướng cởi mở hơn. ...

Nền thương mại thế giới trong nhiều thập kỷ qua đã có sự tăng trưởng rất lớn về quy mô trao đổi, phạm vi hoạt động, các hình thức tiến hành và số quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế cũng ngày một lớn hơn, theo chiều hướng cởi mở hơn.

Tính đến năm 1990, đã có tới 127 quốc gia tham gia vào vòng đàm phá Uruguay so với con số 24 quốc gia hồi sau đại chiến thế giới thứ 2. “Mức thuế quan trung bình đã giảm từ 40% còn 5% trong quan hệ thương mại giữa các quốc gia công nghiệp phát triển, và trong tương lai, mức thuế suất này còn tiếp tục được giảm hơn nữa.

Nhờ những thành công của GATT, và nhờ vào những thành công trong hoạt động đầu tư quốc tế mà mức trao đổi thương mại quốc tế đã có sự tăng trưởng nhảy vọt tới13 lần kể từ năm 1950 đến 1990.

Như vậy nền thương mại thế giới đang ngày càng có những bước phát triển mạnh mẽ , nó đươc coi là xu thế không thể đảo ngược trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế . Thế kỷ 20 cũng chưng kiến một sự phục hồi nhanh chóng của nền kinh tế thế giới từ sau sự tàn phá khốc liệt của đại chiến thế giới thứ 2, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ và đồng thời đó là sự nổi nên cuả 3 trung tâm kinh tế thế giới đó là Mỹ , Nhật va Tây Âu. Cùng với quá trình đó , thế giới cũng được chưng kiến sự hình thành và phát triển của các loại hình liên kết kinh tế quốc tế như một xu thế tất yếu trong quá trình hội nhập và phát triển của các quốc gia.

Xu hướng tự do hóa thương mại bắt nguồn từ qúa trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới với những cấp độ toàn cầu hóa và khu vực hóa, lực lượng sản xuất phát triển vượt ra ngoài phạm vi biên giới của mỗi quốc gia, sự phân công lao động quốc tế phát triển cả về bề rộng và bề sâu, vai trò của các Công ty đa quốc gia được tăng cường, hầu hết các quốc gia chuyển sang xây dựng mô hình “kinh tế mở” với việc khai thác ngày càng triệt để lợi thế so sánh của mỗi nước. Thế giới ngày nay là một chỉnh thể thống nhất, trong đó các quốc gia là những đơn vị độc lập, tự chủ nhưng phụ thuộc nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các quốc gia bắt nguồng từ những yếu tố khách quan : do đIều kiện địa lý ,do sự phân bố không đồng đều tàI nguyên thiên nhiên, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới …

Lịch sử thế giới chứng minh rằng không có quốc gia nào có thể phát triển nếu thực hiện chính sách tự cấp tự túc. Ngược lại, những nước có tốc độ tăng trưởng cao đều là các nước dựa vào kinh tế đối ngoại để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, biết sử dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ để hiện đại hóa nền sản xuất, biết khai thác những nguồn lực nước ngoài để phát huy các nguồn lực trong nước.

Trước đây, nền kinh tế các nước tuy có kiên hệ là giao lưu nhưng chỉ dụa trên quan hệ là song phương la chính , chưa hợp thành một chỉnh thể toàn cầu . Trong thập kỷ cuối của thế kỷ XX , việc quốc tế hoá đời sống kinh tế bước vào giai đoạn mới . Nền kinh tế các nước không chỉ liên hệ giao lưu lẫn nhau mà còn đan dệt vào nhau ,dung hợp lẫn nhau để hình thành một nền kinh tế toàn cầu trên cơ sỏ phát triển mạnh mẽ cách mạng khoa học công nghệ và vai trò then chốt của các công ty xuyên quốc gia.

Qúa trình tự do hóa thương mại được thể hiện rõ nét qua việc hình thành các liên kết kinh tế quốc tế như các khối mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, liên minh kinh tế , liên minh tiền tệ… và các tổ chức kinh tế quốc tế. Hiện nay đã có mấy chục khu vực kinh tế khác nhau về cấp độ, qui mô, nội dung. Tây Âu, Bắc Mũ, Châu á - Thái Bình Dương, Trung Đông, Châu Phi, Mỹ La Tinh đều có các khu vực kinh tế và thương mại tự do. Tiêu biểu như Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC)… góp phần vào thúc đẩy sự tăng trưởng của thương mại thế giới, theo thống kê của tổ chức thương mại (WTO), cho đến nay trên thế giới có tới 144 tổ chức kinh tế mang tính chất khu vực. Các tổ chức kinh tế – tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)… có vai trò toàncầu, thúc đẩy tự do hóa thương mại phát triển mạnh mẽ. Trong các tổ chứcnày, quan trọng nhất là tổ chức thương mại thế giới được coi là “Liên hiệp quốc về thương mại” với hơn 140 thành viên, chiếm hơn 90% giá trị thương mại thế giới, đang là tổ chức thúc đẩy các quốc gia phối hợp các chính sách kinh tế , thực hiện tự do hóa thương mại, dịch vụ, đầu tư, tài chính, tiền tệ để tăng cường các quan hệ kinh tế quốc tế. Với việc các nước thamgia ngày càng nhiều vào các tổ chức kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế và các tổ chức kinh tế khu vực, toàn cầu gần đây đều có xu hướng muốn đẩy nhanh tốc độ, rút ngắn thời hạn thực hiện các cam kết để đẩy nhanh quá trình tự do hóa kinh tế giữa các nước thành viên đã khiến cho quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng, với tốc độ ngày càng tăng.

Đóng góp cho sự phát triển của tự do hóa thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài, người ta không thể không nói đến vai trò của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, vốn là nhân công đã đẩy mạnh sự phát triển của lực lượng sản xuất thế giới. Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nửa cuối thế kỷ XX đã làm cho khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cơ sở kỹ thuật của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia công nghiệp phát triển, đã có sự thay đổi về chất, nền sản xuất đạt được năng suất lao động cao chưa từng thấy và đã tạo ra một khối lượng của cải khổng lồ với hàm lượng tri thức cao. Khoa học công nghệ đã góp phần tới 50-60% vào tăng trưởng kinh tế , trong đó 60% là do tăng năng suất lao động trên cơ sở những thành tựu khoa học công nghệ.

Cuộc cách mạng kỹ thuật đặc biệt là cách mạng về thông tin đã hình thành hệ thống mạng thông tin trên khắp toàn cầu . Việc xây dựng mạng Intểnt và siêu lộ thông tin xuyên quốc gia đã làm cho vô tuyến, đIện thoại , máy tính liên kết thành một khối ,thế giới rộng lớn trở nên nhỏ bé, Các phương tiện vận tảI ,thông tin liên lạc hiện đại phá vỡ bức tường ngăn cách không gian và thời gian giữa các khu vực trên khắp hành tinh , tạo sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia , giữa mọi người trên thế giới . Các sản phẩm trở thành sản phẩm mang tính quốc tế của nhiều hãng khác nhau do các quốc gia đều có thể phát huy ưu thế kỹ thuật lao động . Cũng do sự phát triển kỹ thuật thông tin nên người quản lýcó thể nắm được tình hình thị trường ở nhiều nơI trên thế giới và tinh toán cần thiết để tìm ra cơ hội thuận lợi trong việc bố trí sắp xếp nguồn lực sao cho có lợi nhất . Chính do sự phát triển của khoa học công nghệ mà nhu cầu về tự do hoá thương mại trở nên mạnh mẽ hơn và bức thiết hơn.

Do sự khác biệt về điều kiện tự nhiên, sự phát triển không đồng đều về kinh tế, khoa học kỹ thuật giữa các quốc gia đòi hỏi họ phải mở rộng phạm vi hợp tác và trao đổi. Điều đó đã khiến cho phân công lao động phát triển. Nhu cầu tiêu dùng ở mỗi quốc gia ngày càng tăng về số lượng, chất lượng và chủng loại nên việc một vài quốc gia đơn lẻ có thể sản xuất hàng hóa để cung ứng cho thị trường trở nên không còn thiết thực. Việc phân công lao động trên bề rộng, giữa các quốc gia sẽ đem lại hiệu quả và lợi nhuận cao hơn, tỷ lệ thuận với nhu cầu của người tiêu dùng. Những chuyển biến quan trọng mà trong đó vai trò của lực lượng sản xuất là một trong những yếu tố quyết định nền sản xuất thế giới đã được cơ cấu lại theo hướng linh hoạt hóa trên cơ sở chu chuyển tư bản xuyên quốc gia được thực hiện dễ dàng và linh hoạt. Điều này đã làm nảy sinh và đẩy mạnh thương mại xuyên quốc gia, khiến cho thương mại thế giới về hàng hóa và dịch vụ tăng vọt, tự do hóa thương mại phát triển ngày càng mạnh mẽ.

Phân công lao động quốc tế làm đối tượng và phạm vi tham gia vào việc trao đổi quốc tế được mở rộng, đồng thời lợi thế so sánh của các quốc gia được khai thác triệt để, đã thúc đẩy thương mại hàng hóa và dịch vụ phát triển dẫn đến đòi hỏi bức thiết về tự do hóa thưoưng mại và đầu tư lẫn nhau giữa các quốc gia.

Như vậy, qua những phân tích và đánh giá trên có thể nhận thấy một điều rằng, ngày nay, tự do hóa thương mại đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Tự do hóa thương mại vừađem lại lợi ích to lớn cho các quốc gia, vừa tạo ra những thách thức lớn trên con đường hội nhập của các quốc gia vào nền kinh tế thế giới. Chính những cơ hội và thách thức đó đã đẩy các quốc gia lại gần nhau hơn, nó đã thúc dục các quốc gia có những sự tương đồng về địa lý, văn hóa, lợi ích kinh tế … tập hợp lại trong những tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, hợp tác với nhau để hình thành các liên kết mang tầm khu vực và quốc tế. Các liên kết kinh tế khu vực được hình thành, một mặt tạo điều kiện đẩy nhanh qúa trình quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới trên cơ sở việc giải quyết nhanh những bất đồng tồn tại giữa các quốc gia có nhiều sự tương đồng. Mặt khác, liên kết kinh tế quốc tế trên một giác độ nào đó cũng có thể được coi như là một phản ứng tự nhiên của các quốc gia mà theo đó họ tập hợp lại trong một khối kinh tế lớn hơn để đề kháng lại những tác động được coi là tiêu cực với các quốc gia trước sự bành trướng quá nhanh của xu hướng toàn cầu hóa về kinh tế. Quá trình này, tuy vậy lại đẩy nhanh hơn tự do hóa thương mại trong nội bộ các quốc gia thuộc khối liên kết. Về lâu dài, đó sẽ là cơ sở vững chắc cho tự do hóa thương mại và đầu tư toàn cầu.

Từ những phân tích trên ,có thể thấy nguồn FDI vào Việt Nam trong thời gian tới có thể có những đặc điểm sau đây :

Thứ nhất, sẽ có sự chuyển dịch trong cơ chế FDI đổ vào Việt Nam theo sơ đồ phân công sản xuất toàn khu vực. Dưới tác động của AFTA, có thể có những biến động trong cơ cấu FDI mà cụ thể là sự gia tăng lượng FDI vào những ngành mà Việt Nam có lợi thế so với các nước trong khu vực (dệt may, da giầy, chế biến nông lâm sản,…). Đồng thời sẽ là sự giảm sút FDI đổ vào những ngành mà Việt Nam không có lợi thế so với các nước ASEAN khác. ở đây cũng cần lưu ý tớimột số ngành mà lợi thế so sánh của từng nước chưa thể hiện sự vượt trội của bất kỳ quốc gia ASEAN nào - đó là mà lợi thế so sánh hiện còn thể hiện dưới dạng tiềm năng ở từng quốc gia. Nguồn FDI đổ vào những ngành có lợi thế so sánh tiềm năng sẽ phụ thuộc nhiều vào những chính sách, thủ tục và sự thuận lợi mang tính chủ quan mà từng nước ASEAN tạo ra cho các nhà đầu tư.

Thứ hai, việc Việt Nam gia nhập khu vực mậu dịch tự do AFTA với sự cắt giảm thuế quan vào năm 2006 sẽ làm cho hàng hóa của các nước trong khối thâm nhập và cạnh tranh gay gắt với nhau hơn. Nếu như Việt Nam không có một môi trường đầu tư có hiệu quả thì sẽ dẫn đến các nhà đầu tư chuyển sang đầu tư tại những nơi thuận lợi hơn rồi chuyển hàng vào tiêu thụ ở Việt Nam.

Một yếu tố khác có thể tác động không nhỏ đến việc giảm sút đầu tư vào Việt Nam đó chính là ảnh hưởng của khủng hoảng sẽ làm cho các nhà đầu tư của Mỹ và Châu Âu dừng hoạt động lại để xem xét tình hình đầu tư lâu dài. Do khủng hoảng mà một số nhà đầu tư đánh giá khu vực này chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro… Do đó mà trong những năm tới đầu tư vào Việt Nam không tránh khỏi những khó khăn chung này.

Thứ ba, đầu tư của các nước Châu á vào Việt Nam bị hạn chế bởi những quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước ASEAN gặp nhiều khó khăn tại chính quốc gia họ, dẫn đến những nhà đầu tư của những nước ngày phải tạm dừng hoạt động làm ăn cầm chừng, xin rút giấy phép đầu tư.

Thứ tư, hiện nay các nước trong khu vực đang trong tình trạng phục hồi nền kinh tế dẫn tới họ sẽ áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi để thu hút vốn đầu tư. Chính điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam do phải cạnh tranh với các quốc gia trong khu vực. Bởi Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng về lợi thế và điều kiện so với những nước như: Trung Quốc hoặc những nước trong khu vực Đông Nam á.

Trên đây là những yếu tố mang tính chất khách quan tác động vào hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thời gian tới. Bên cạnh đó, các yếu tố như cơ cấu đầu tư của Việt Nam chưa hợp lý, điển hình là những đối tác trên thế giới có vị thế chưa xứng đáng trong đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, lĩnh vực sử dụng vốn đầu tư của Việt Nam chưa hợp lý dẫn đến có nhiều ngành còn nhỏ lẻ, hình thức đầu tư chưa thực sự đa dạng.

Việc tham gia vào AFTA sẽ làm tăng lượng vốn đầu tư trực tiệp nước ngoài vào Việt Nam. Đối với các nhà đầu tư ngoài AFTA , Việt Nam có nhiều lợi thế trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài . Đồng thời , nguyên tắc xuất xứ hàng hoá của AFTA có yêu cầu thập hơn so với yêu cầu của các khu vực mậu dich tự do khác cho nên tham gia vào AFTA còn tạo điêù kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc đầu tư sản xuất ở các nước trong AFTA và tiêu thụ sản phẩm ở các nước khác sẽ tạo động lực thu hút mạnh hơn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . Các nhà đầu tư trong AFTA sẽ chú ý nhiều hơn đến viêc di chuyển một số ngành sản xuất sang Việt Nam do các nước này đang mất dần lợi thế và lao động rẻ. Đồng thời Việt Nam đang có mục tiêu tạo nhiều việc làm cho người lao động ,do đó , việc di chuyển các cơ sở sản xuất từ các nước sang Việt Nam sử dụng nhiều lao động rất phù hợp voứi chiến lược phát triển của Việt Nam .

Hơn nữa, thế mạnh của các nước trong viêc đầu tư ra nước ngoài không phải ở các ngành công nghiệp có công nghệ cao , thậm chí cũng không phảI ở lĩnh vực công nghệ chế biên quy mô lớn .Các nước này cũng đang cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư nước ngoài . Vì vậy , hoạt động đầu tư của các nước trong AFTA sang Viêt Nam sẽ tiếp tục tăng ở các hoạt động dịch vụ , thương mại ,công nghệ chế biến vừa và nhỏ .

Ngoài ra, việc tham gia vào AFTA còn tác động đến việc hình thành và phát triển thị trường tài chính –tiền tệ , mở rộng các hoạt động dịch vụ và nâng cao hiệu lực của bộ máy nhà nước.

0