Đặc điểm đầu tư ngành chè Việt Nam và nguồn vốn đầu tư
Đầu tư phát triển ( viết tắt ĐTPT ) trong nông nghiệp nói chung và ngành chè nói riêng mang những đặc điểm khác biệt với các hoạt động đầu tư trong các lĩnh vực sản xuất vật chất khác. Đó là sự tác động trực tiếp và gián tiếp của điều kiện tự ...
Đầu tư phát triển ( viết tắt ĐTPT ) trong nông nghiệp nói chung và ngành chè nói riêng mang những đặc điểm khác biệt với các hoạt động đầu tư trong các lĩnh vực sản xuất vật chất khác. Đó là sự tác động trực tiếp và gián tiếp của điều kiện tự nhiên đối với bản thân các yếu tố đầu tư.
ĐTPT trong ngành chè thường có thời gian thu hồi vốn đầu tư dài hơn các ngành khác, bởi chè là loại cây công nghiệp dài ngày, chu trình sinh trưởng khá lâu, nên chu kỳ hoạt động kinh tế kéo dài. Thông thường đầu tư cho chè phải trải qua các giai đoạn phát triển sinh học, nên từ khi trồng đến khi bắt đầu được thu hái phải mất thời gian 3 năm, và thời gian kinh doanh có thể từ 30 đến 50 năm. Cho nên, vốn đầu tư phải phân bổ trong khoảng thời gian kéo dài và theo thời vụ của cây chè. Thêm vào đó, hiệu quả thu hoạch cây chè trong những năm đầu kinh doanh là rất thấp, hiệu quả chỉ được tăng dần trong thời gian sau. Do đó, thời gian để hoàn đủ vốn đầu tư xây dựng cơ bản là khá lâu.
ĐTPT chè trong các lĩnh vực trồng trọt,cây giống, chăm sóc, cải tạo.. . diễn ra trong một địa bàn không gian rộng lớn, trên các vùng đồi trung du, miền núi. Điều này làm tăng tính phức tạp trong quản lý và điều hành các công việc để khai thác đầu tư có kết quả
ĐTPT chè đòi hỏi phải có hệ thống hạ tầng cơ sở tối thiểu như các viện nghiên cứu, các trung tâm khảo nghiệm, hệ thông thuỷ lợi, mạng lưới giao thông, hệ thống điện tương thích, các phương tiện thiết bị phù hợp.. . Đây là điều kiện chưa được quan tâm thích đáng trong vùng chè. Trong khi đó, các khu công nghiệp chế biến có điều kiện hạ tầng phát triển hơn lại xây dựng xa vùng nguyên liệu, gây tốn kém về chuyên chở và làm giảm chất lượng chè thành phẩm; vì chè búp tươi hái về phải chế biến ngay, nếu chậm sẽ làm giảm mạnh chất lượng chè nguyên liệu và chè thành phẩm. Do đó, hoạt động ĐTPT trong ngành chè đòi hỏi nhà quản lý phải nghiên cứu thận trọng, đảm bảo tính phù hợp, có hệ thống và liên hoàn giữa vùng sản xuất chè nguyên liệu với khu vực chế biến chè thành phẩm.
ĐTPT các vườn chè, phần lớn giao cho các hộ gia đình quản lý chăm sóc. Khâu chăm sóc đòi hỏi vốn đầu tư lớn, nhưng thường các hộ nông dân không đủ vốn, vì thế các cơ sở sản xuất kinh doanh thường phải đầu tư loại vốn này, ứng trước vật tư kỹ thuật cho người trồng; và khả năng thu hồi nguồn vốn này là rất khó khăn.
Trong hoạt động ĐTPT chè cần chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng hàng hoá và ĐTPT thị trường, kể cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài; bởi phần lớn sản lượng chè của nước ta ( 70 - 80%) là dành cho xuất khẩu - một thị trường cạnh tranh khắc nghiệt. Để phát triển thị trường, công tác Marketing phải được chú trọng, để tìm hiểu hướng thị trường, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước.
ĐTPT chè cũng như bất kỳ một hoạt động đầu tư nào khác đều phải chú trọng yếu tố con người, coi “ con người là nhân tố quyết định hết thảy”. Nó luôn đóng một vai trò quan trọng, là trung tâm trong mọi mối quan hệ, là hạt nhân trong mọi hoạt động đầu tư. Do vậy, chiến lược ĐTPT nhân lực trong ngành chè là vô cùng hệ trọng, để tạo ra một đội ngũ lao động có tri thức, có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh và quản lý.
Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cấu chung của Nhà nước và của xã hội . Ngồn vốn đầu tư phát triển ngành chè bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vốn đầu tư trong nước
Nguồn vốn Nhà nước
Đối với nguồn vốn Ngân sách Nhà nước : Đây chính là nguồn chi của Ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược đưa cây chè trở thành cây công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng vùng chè, hỗ trợ cho các dự án xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ Tổng công ty chè nhập khẩu máy móc, thiết bị và các hom giống chè trong chiến lược đầu tư phát triển của các Doanh nghiệp...
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùn với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển ngành chè. Nguồn vốn này đóng vai trò tích cực trong việc làm giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế cốn tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là ngưới vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát Ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp.
Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, Nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của các vùng chè theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ diều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn cả mục tiêu phát triển kinh tế xã hội . Việc phân bổ và sử dụng tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xoá đói giảm nghèo .
Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước : Được xác nhận là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo khá lớn trong ngành chè, đóng vai trò là dơn vị hàng đầu trong chiến lược đầu tư phát triển ngành chè Việt Nam.
Nguồn vốn từ khu vực tư nhân
Đối với ngành chè, nguồn vốn tư nhân được huy động chủ yếu từ các hộ gia đình làm chè thủ công, các hợp tác xã trồng chè và các doanh nghiệp sản xuất chè tư nhân. Nhìn chung , nguồn vốn ở khu vực các hộ nông dân vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư cho ngành chè, thậm chí ở các khu vực khó khăn như vùng sâu, vùng xa , cây chè cũng bị bỏ hoang do thiếu vốn để đầu tư chăm sóc.
Nguồn vốn nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài đầu tư cho ngành chè bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài :
Là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư vào ngành chè ở Việt Nam và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiên dưới các hình thức chủ yếu sau:
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh
- Doanh nghiệp liên doanh
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
- Các hợp đồng BOT, BT, BTO
Vốn đầu tư gián tiếp :
Là vốn của các chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ được thực hiện dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời hạn dài lãi suất thấp cho các nước khác. Một hình thức quan trọng của hình thức này là vốn ODA.
Vốn đầu tư nước ngoài là cần thiết đối với sự phát triển ngành chè ở nước ta. Nhưng cũng cần phải khẳng định một điều đối với sự phát triển đất nước, vốn trong nước có vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng. Vốn trong nước quyết định chủ động trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, quyết định thực hiện thắng lợi các mục tiêu xã hội, quyết định chủ động xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý tạo sự phát triển cân đối, quyết định tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, là bộ phận đối ứng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo cơ sở thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Còn vốn đầu tư nước ngoài hỗ trợ bổ sung những thiếu hụt vốn đầu tư góp phần đẩy nhanh mức tiết kiệm nội địa và tăng tỷ trọng vốn đầu tư nội địa, góp phần nâng cao trình độ khoa học công nghệ của nền kinh tế, của các ngành, góp phần nầng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.