25/05/2018, 13:11

Công an Nhân dân Việt Nam

là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, làm nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt ...

là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, làm nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Công an nhân dân có chức năng tham mưu cho Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; thực hiện thống nhất quản lý về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự thống nhất quản lý của Chính phủ và sự chỉ huy, quản lý trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Công an.

Công an hiệu

Từ "công an" là một từ gốc hán (公安)và được sử dụng tại các quốc gia Trung Quốc (公安-Gong1 an1), Việt Nam (公安-công an), Nhật Bản(公安-こうあん)và Hàn Quốc 公安-공안). Nghĩa của nó được hình thành bởi hai chữ Hán "Công" nghĩa là "công cộng" và "an" nghĩa là "trật tự", "hoà bình". "Công an", theo đó, có nghĩa là "lực lượng gìn giữ trật tự công cộng".

Quá trình hình thành

Nguồn gốc của lực lượng được xem là bắt đầu từ các đội Tự vệ Đỏ trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), các Đội Danh dự trừ gian, Hộ lương diệt ác... do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập với mục đích bảo vệ tổ chức. Những năm 1930 - 45, để chống các hoạt động phá hoại và do thám của thực dân Pháp và chính quyền tay sai, bảo vệ cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thành lập các đội: Tự vệ đỏ, Tự vệ công nông, Danh dự trừ gian, Danh dự Việt Minh. Đó là những tổ chức tiền thân của công an nhân dân và quân đội nhân dân sau này.

Sau cuộc Cách mạng tháng Tám (nổ ra ngày 19 tháng 8 năm 1945), chính quyền lâm thời của Việt Minh đã có chỉ thị thành lập một lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự. Tuy nhiên, lực lượng này chưa có tên gọi chung mà mang nhiều tên gọi khác nhau, như Sở Liêm phóng (ở Bắc Bộ), Sở trinh sát (ở Trung Bộ), Quốc gia tự vệ cuộc (ở Nam Bộ). Đến ngày 21 tháng 2 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 23/SL hợp nhất các lực lượng này thành một lực lượng công an nhân dân ở cả ba miền được thống nhất một tên gọi thống nhất là Công an có nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội; và thành lập Việt Nam Công an Vụ để quản lý lực lượng công an nhân dân do một Giám đốc đứng đầu, mà người đầu tiên là Lê Giản.

Trong thời kỳ đầu, cơ quan quản lý ngành Công an là Nha Công an vụ, trực thuộc Bộ Nội vụ. Đến ngày 16 tháng 2 năm 1953, thành lập thành Thứ bộ Công an, trực thuộc Bộ Nội vụ, đứng đầu là một Thứ trưởng. Đến năm 1955, thì tách hẳn thành Bộ Công an. Năm 1959, sáp nhập các lực lượng biên phòng thành lực lượng Công an vũ trang (nay là lực lượng Biên phòng) trực thuộc quyền quản lý của Bộ Công an (về sau lại chuyển về trực thuộc Bộ Quốc phòng). Cũng từ năm này, lực lượng Công an được tổ chức vũ trang và bán vũ trang theo biên chế, có phù hiệu và cấp hàm tương tự như quân đội.

Cơ quan quản lý qua các thời kỳ

* 19 tháng 8 năm 1945 - 21 tháng 2 năm 1946: Sở Liêm phóng (ở Bắc Bộ), Sở trinh sát (ở Trung Bộ), Quốc gia tự vệ cuộc (ở Nam Bộ).

* 1946-1953: Nha Công an vụ, trực thuộc Bộ Nội vụ.

* 1953-1955: Thứ Bộ Công an trực thuộc Bộ Nội vụ.

* 1955-1975: Bộ Công an.

* 1975-1998: Bộ Nội vụ.

* 1998-nay: Bộ Công an.

Trừ 2 bộ trưởng đầu tiên là dân sự, các đời bộ trưởng về sau đều là sĩ quan cấp tướng. Ngay cả bộ trưởng đương nhiệm cũng thuộc dân sự, sau được đồng hóa thành cấp hàm Đại tướng.

Ngày truyền thống

Ngày 19 tháng 8 hằng năm được lấy làm ngày truyền thống của và đuợc quy định là "Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc".

Hệ thống tổ chức của Công an nhân dân gồm có:

1. Bộ Công an;

2. Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

3. Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

4. Công an xã, phường, thị trấn.

* Công an xã là lực lượng vũ trang bán chuyên trách làm nòng cốt trong phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở, chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp uỷ Đảng, sự quản lý, điều hành của Ủy ban nhân dân xã và sự chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ của Công an cấp trên. Tổ chức, hoạt động, trang bị, trang phục, đào tạo, bồi dưỡng và chế độ, chính sách đối với Công an xã do pháp luật quy định.

Trong lực lượng Công an Nhân dân chia thành hai lực lượng riêng biệt là Cảnh sát Nhân dân và An ninh Nhân dân, thực thi các nhiệm vụ chuyên biệt.

* Nhiệm vụ của An ninh nhân dân

- Phòng ngừa, phát hiện, làm thất bại các âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia.

- Hoạt động tình báo.

- Hướng dẫn và phối hợp với các tổ chức thực hiện công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, an ninh văn hoá - tư tưởng, an ninh thông tin; tham gia thẩm định quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội liên quan đến bảo vệ an ninh quốc gia.

- Thực hiện quản lý công tác xuất cảnh, nhập cảnh; quản lý người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài cư trú tại Việt Nam; quản lý về bảo vệ bí mật nhà nước; thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia ở biên giới, cửa khẩu theo quy định của pháp luật.

- Làm nòng cốt xây dựng thế trận an ninh nhân dân trên các lĩnh vực, tại các địa bàn.

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

* Nhiệm vụ của Cảnh sát nhân dân

- Phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, về bảo vệ môi trường; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật khác và kiến nghị biện pháp khắc phục; tham gia giáo dục đối tượng vi phạm pháp luật tại cộng đồng theo quy định của pháp luật.

- Quản lý hộ khẩu, cấp giấy chứng minh nhân dân; quản lý con dấu; quản lý về an ninh, trật tự các nghề kinh doanh có điều kiện và dịch vụ bảo vệ; quản lý và bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, trật tự công cộng; quản lý vũ khí, vật liệu nổ; quản lý, thực hiện công tác phòng cháy, chữa cháy; tham gia cứu hộ, cứu nạn theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Cấp bậc của cán bộ, chiến sĩ Công an Việt Nam phân thành 5 cấp: cấp tướng (4 bậc); cấp tá (4 bậc); cấp úy (4 bậc); cấp hạ sĩ quan (3 bậc); và cấp chiến sĩ (2 bậc); với danh xưng tương tự hệ thống cấp bậc của quân đội. Ngoài ra còn được phân loại thành Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật. Cấp bậc thấp nhất của Sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật là Hạ sĩ và cao nhất là Thượng tá.

Theo Nghị định 42/2007/NĐ-CP, hệ thống cấp bậc hàm của sĩ quan đảm nhiệm chức vụ cơ bản trong lực lượng Công an nhân dân thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 24 Luật Công an nhân dân, cụ thể như sau:

a) Tiểu đội trưởng: Thiếu uý, Trung úy, Thượng úy;

b) Trung đội trưởng: Trung úy, Thượng úy, Đại úy;

c) Đại đội trưởng: Thượng úy, Đại úy, Thiếu tá;

d) Tiểu đoàn trưởng, Trưởng Công an phường, thị trấn, Đội trưởng: Thiếu tá, Trung tá;

đ) Trung đoàn trưởng, Trưởng Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, Trưởng phòng: Trung tá, Thượng tá;

e) Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Cục trưởng, Vụ trưởng: Thượng tá, Đại tá;

g) Giám đốc Công an thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Giám Đốc Sở Cảnh sát Phòng cháy Chữa cháy Thành Phố Hồ Chí Minh: Đại tá, Thiếu tướng

h) Tổng cục trưởng: Thiếu tướng, Trung tướng;

i) Thứ trưởng: Thiếu tướng, Trung tướng, Thượng tướng

k) Bộ trưởng: Thượng tướng, Đại tướng.

Bộ trưởng Bộ Công an đương nhiệm là Đại tướng An ninh Nhân dân Lê Hồng Anh.

Ở những đơn vị được giao nhiệm vụ quan trọng, đặc biệt hoặc địa bàn có vị trí trọng yếu về an ninh, trật tự thì cấp bậc hàm cao nhất có thể cao hơn một bậc so với cấp bậc hàm cao nhất của chức vụ tương ứng.

Hạn tuổi phục vụ cao nhất của sĩ quan Công an nhân dân ở cấp úy là 50 đối với cả nam và nữ; Thiếu tá, Trung tá là 55 đối với nam, 53 đối với nữ; Thượng tá nam 58, nữ 55; Đại tá, cấp Tướng nam 60, nữ 55.

Sĩ quan Công an nhân dân được kéo dài tuổi phục vụ phải đủ các điều kiện như đơn vị trực tiếp sử dụng sĩ quan hoặc đơn vị khác trong Công an nhân dân thực sự có nhu cầu; sĩ quan Công an nhân dân có phẩm chất tốt, sức khoẻ tốt, tự nguyện và có một trong hai điều kiện: cán bộ nghiên cứu khoa học trong Công an nhân dân có học hàm, học vị Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ; danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú, Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú.

Cán bộ trong Công an nhân dân đang tham gia vào chương trình, đề tài khoa học cấp Nhà nước; chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực công tác của Công an nhân dân cũng có thể được kéo dài tuổi phục vụ. Trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

* Trần Quốc Hoàn (1954-1981)

* Phạm Hùng (1981-1987)

* Mai Chí Thọ (1987-1991)

* Bùi Thiện Ngộ (1991-1996)

* Lê Minh Hương (1996-2002)

* Lê Hồng Anh (2002-nay)

* đã vinh dự được Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam tặng thưởng ba Huân chương Sao Vàng (1980, 1985, 2000) và nhiều phần thưởng cao quý khác;

* 571 lượt đơn vị và 291 cá nhân được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đã bị các phương tiện báo, đài quốc tế và trong nước liên tục đưa thông tin thương tâm về việc nhiều thường dân bị chết, hoặc sức khỏe bị xâm hại diễn ra một cách triền miên do các hoạt động nghiệp vụ của Công an Việt Nam. Tuy vậy vẫn chưa có lý giải thỏa đáng cho vấn đề này.

Một số công an còn bị báo chí đưa tin về việc tra tấn, đánh đập người dân khi lấy lời khai hoặc khẩu cung.

Ngoài những vụ việc nêu trên, một số cá nhân trong ngành công an cũng bị báo chí lên tiếng vì những hành vi mất tư cách khác như: tống tình học sinh, gạ tình, đánh người, còng tay bắn vào đầu người khác, đánh đập học sinh, v.v...

Nói chung, những vụ việc được báo chí ghi nhận chủ yếu xảy ra ở lực lượng công an cấp cơ sở (xã, phường, thị trấn) chính vì vậy, để quản lý chặt chẽ hơn, Nhà nước đã ban hành pháp lệnh Công an xã để quy định nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng này trong khi thi hành công vụ.

Ngoài ra, một số phương tiện truyền thông khác bên ngoài Việt Nam cũng lên tiếng chỉ trích lực lượng công an thực hiện việc đàn áp nhân dân mà đặc biệt là nhằm vào giáo dân xung quanh các vụ tranh chấp đất đai.

0