25/05/2018, 13:04

Chính Thống giáo Đông phương

, bao gồm Chính Thống giáo Hy Lạp và Chính Thống giáo Nga, là một truyền thống Kitô giáo đại diện đa số trong Kitô giáo Đông phương. Chính Thống giáo truy nguyên nguồn gốc của họ về - và tuyên bố là sự tiếp nối duy nhất của - giáo hội Kitô giáo nguyên thủy, ...

, bao gồm Chính Thống giáo Hy Lạp và Chính Thống giáo Nga, là một truyền thống Kitô giáo đại diện đa số trong Kitô giáo Đông phương. Chính Thống giáo truy nguyên nguồn gốc của họ về - và tuyên bố là sự tiếp nối duy nhất của - giáo hội Kitô giáo nguyên thủy, xem chính mình như Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền. Trong thiên niên kỉ đầu của Kitô giáo, và Công giáo Rôma cùng là một giáo hội, mặc dù có một số khác biệt giữa đông phương và tây phương. Vào thế kỉ thứ 11, các khác biệt này dẫn đến cuộc Ly giáo Đông - Tây năm 1054, phân chia thành và Công giáo Rôma.

Tín hữu Chính Thống giáo vẫn xem giáo hội của mình là truyền thống Cơ Đốc trung thành nhất với các giá trị thần học bắt nguồn từ thời hội thánh tiên khởi. Giáo hội cấu trúc tổ chức bao gồm các giáo phận độc lập cùng chia sẻ một nền thần học, đặt dưới quyền cai quản của các giám mục có nhiệm vụ bảo vệ các truyền thống giáo hội được lưu truyền từ Mười hai Sứ đồ qua quyền tông truyền, đặc biệt là Thánh Anrê.

Tín hữu Chính Thống giáo xem giáo hội của họ là:

* Hội thánh nguyên thủy được thiết lập bởi Chúa Giê-xu Cơ Đốc và các sứ đồ.

* Giáo huấn và truyền thống giáo hội được bảo tồn bởi các tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai được lưu truyền từ các sứ đồ, cùng các truyền thống khác được phát triển sau này nhằm mở rộng và làm sáng tỏ các giáo huấn nguyên thủy.

* Tân Ước viết cho tín hữu thời kỳ hội thánh sơ khai và trình bày các giáo lý đã có sẵn của hội thánh (ngụ ý Giáo hội là nền tảng của Tân Ước).

Giáo hội thiết lập và bảo tồn lịch Cơ Đốc nguyên thủy (dựa trên lịch Julian), xác lập những ngày lễ kỷ niệm các sự kiện quan trọng trong cuộc đời Chúa Giê-xu.

Theo dòng lịch sử, các giáo hội Chính Thống chịu ảnh hưởng văn hóa Hi Lạp liên kết với Alexandria, Constantinople (nay là Istanbul), cùng các thành phố khác thuộc nền văn minh Hi Lạp; trong khi đó Giáo hội Rôma liên kết với La Mã thuộc văn hóa Latin và phương Tây. Sự khác biệt ngày càng gia tăng khi Đế chế La Mã bị chia cắt thành hai phần: phương Đông và phương Tây.

Chính Thống giáo xem Chúa Giê-xu là đầu của hội thánh và hội thánh là thân thể của ngài. Người ta tin rằng thẩm quyền và ân điển của Thiên Chúa được truyền trực tiếp xuống các giám mục và chức sắc giáo hội qua việc đặt tay – một nghi thức được khởi xướng bởi các sứ đồ, và sự nối tiếp lịch sử liên tục này là yếu tố căn bản của giáo hội (Công vụ 8:17; 1Tim 4:14; Heb 6:2). Mỗi giám mục cai quản giáo phận của mình. Nhiệm vụ chính của giám mục là gìn giữ các truyền thống và qui tắc của giáo hội khỏi bị vi phạm. Các giám mục có thẩm quyền ngang nhau và không được can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Về mặt hành chính, các giám mục và các giáo phận được tổ chức thành các nhóm tự quản, trong đó các giám mục họp ít nhất hai lần mỗi năm để bàn bạc về các vấn đề liên quan đến giáo phận của họ. Khi xuất hiện các học thuyết dị giáo, một “đại” công đồng được triệu tập qui tụ tất cả giám mục. Giáo hội xem bảy công đồng đầu tiên (từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8) là quan trọng nhất mặc dù các hội nghị khác cũng góp phần định hình quan điểm của Chính Thống giáo. Những công đồng này không thiết lập giáo lý cho hội thánh nhưng chỉ so sánh các học thuyết mới với các xác tín truyền thống của giáo hội. Học thuyết nào không phù hợp với truyền thống giáo hội bị xem là dị giáo và bị loại trừ khỏi giáo hội. Các công đồng được tổ chức theo thể thức dân chủ dựa trên nguyên tắc mỗi giám mục một lá phiếu. Dù được phép dự họp và phát biểu tại công đồng, quan lại triều đình Rôma hay Byzantine, tu viện trưởng, linh mục, tu sĩ hoặc tín đồ không có quyền bầu phiếu. Trước cuộc Đại Ly giáo năm 1054, Giám mục thủ đô La Mã, tức Giáo hoàng, dù không có mặt tại tất cả công đồng, vẫn được xem là chủ tọa công đồng và được gọi là “Người đứng đầu giữa những người bình đẳng”. Một trong những nghị quyết của công đồng thứ nhì, được khẳng định bởi các công đồng sau, là Giám mục thành Constantinople (Constantinople được xem là Rôma mới) được dành vị trí thứ hai. Sau khi tách khỏi Rôma, vị trí chủ tọa công đồng được dành cho Thượng phụ thành Constantinople với danh hiệu “Người đứng đầu giữa những người bình đẳng”, thể hiện sự bình đẳng của chức vụ này trong phương diện hành chính và tâm linh. Người đảm nhiệm chức vụ này không được xem là đầu của hội thánh hoặc giáo chủ.

Theo các ước tính, số tín hữu Chính Thống giáo là từ 150-350 triệu người. Chính Thống Đông phương cũng là tôn giáo phổ biến nhất ở Belarus (89%), Bulgaria (86%), Cộng hòa Cyprus (88%), Georgia (89%), Hi Lạp(98%), Macedonia (70%), Moldova (98%), Montenegro (84%), Romania (89%), Nga(76%), Serbia (88%), và Ukraine (83%). Tại Bosnia và Herzegovina, tỷ lệ này là 31%, tại Kazakhstan là 48%, và 4% ở Lithuania. Thêm vào đó là các cộng đồng ChínhThống giáo ở châu Phi, châu Á, Úc, Bắc Mỹ và Nam Mỹ.

Ba Ngôi

Tín hữu Chính Thống giáo tin Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Con và Chúa Thánh Linh lưu xuất từ Chúa Cha. Ba Ngôi là ba thân vị (hypostases) độc lập, có cùng một bản thể (ousia) – tự hữu, hằng hữu, và phi vật chất. Xác tín này được trình bày trong bản Tín điều Nicaea.

Tội lỗi và sự Cứu rỗi

Bản chất của con người, trước khi sa ngã, là tinh tuyền và vô tội. Nhưng hành động bất tuân Thiên Chúa của Adam và Eva trong Vườn Eden đã để tội lỗi và sự bại hoại thâm nhập vào bản chất tinh tuyền ấy. Tình trạng bất khiết này đã ngăn cản con người hưởng Vương quốc Thiên đàng. Song, khi Thiên Chúa hóa thân thành người trên dương thế, ngài đã thay đổi bản chất ấy bằng cách hiệp nhất con người với Thiên Chúa; do đó, Chúa Cơ Đốc thường được gọi là “Adam mới”. Bằng cách trở thành người, chết trên cây thập tự, và sống lại, ngài đã thánh hóa các phương tiện ân điển, nhờ đó chúng ta được trở lại với tình trạng tinh tuyền nguyên thủy và phục hòa với Thiên Chúa. Điều này Chính Thống giáo gọi là được cứu khỏi tình trạng bệnh tật của tội lỗi. Quyền năng của sự cứu rỗi giải thoát mọi người công chính khỏi quyền lực trói buộc của tội lỗi, kể từ buổi sáng thế, trong đó có cả Adam và Eva.

Phục sinh

Sự Phục sinh của Chúa Giê-xu là sự kiện trọng tâm trong lịch giáo nghi của Chính Thống giáo. Tín hữu Chính Thống giáo tin đây là một sự kiện lịch sử và Chúa Giê-xu thật sự sống lại trong thân xác. Chúa Giê-xu, Con Thiên Chúa, bị đóng đinh, sau khi chết, đến ngày thứ ba ngài sống lại để cứu rỗi nhân loại. Ngài đã giải thoát loài người khỏi quyền lực của hỏa ngục. Như thế, mọi kẻ tin đều có thể dự phần vào sự sống vĩnh hằng.

Kinh Thánh, Truyền thống Thánh

Chính Thống giáo xem mình là sự nối tiếp lịch sử từ hội thánh tiên khởi được thành lập bởi Chúa Cơ Đốc và các sứ đồ. Đức tin được truyền dạy bởi Chúa Giê-xu và các sứ đồ mặc lấy sức sống bởi Chúa Thánh Linh trong ngày Lễ Ngũ Tuần, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, được gọi là Truyền thống Thánh. Lời chứng chủ yếu và có thẩm quyền cho Truyền thống Thánh là Kinh Thánh, được viết ra và được chuẩn thuận bởi các sứ đồ để ký thuật chân lý được mặc khải và lịch sử tiên khởi của hội thánh. Bởi vì Kinh Thánh được linh dẫn, nên được xem là trọng tâm của sự sống hội thánh.

Theo quan điểm Chính Thống giáo, Kinh Thánh luôn được giải thích trong nội hàm của Truyền thống Thánh. Truyền thống Thánh đã hình thành và quy điển Kinh Thánh. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng Kinh Thánh không độc lập với giáo hội, do dó, cách duy nhất để hiểu Kinh Thánh là giải thích Kinh Thánh trong nội dung truyền thống giáo hội.

Các lời chứng khác cho Truyền thống Thánh là giáo nghi, tranh tượng, nghị quyết của các công đồng, và giáo huấn của các Giáo phụ. Từ sự đồng thuận của các Giáo phụ (consensus patrum) mà người ta có thể hiểu biết sâu sắc và đầy đủ hơn về đời sống của giáo hội. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng quan điểm của từng giáo phụ riêng lẻ không được xem là vô ngộ (không sai lầm), nhưng sự đồng thuận của các giáo phụ sẽ giúp mang đến một sự hiểu biết chân xác về Kinh Thánh và các giáo thuyết.

Theotokos và các Thánh

Theotokos - Mẹ Thiên Chúa, một trong những tranh tượng được tôn kính nhất của Chính Thống giáo.

Chính Thống giáo tin rằng sự chết và sự tách rời linh hồn khỏi thể xác là không bình thường; là hậu quả của tình trạng sa ngã của loài người. Họ cũng tin rằng hội thánh bao gồm người sống và người đã khuất. Mọi người đang sống trên thiên đàng đều là thánh, dù tên tuổi của họ có được biết đến hay không. Tuy nhiên, có những vị thánh đặc biệt mà Chúa muốn chúng ta biết để noi theo. Khi một vị thánh được đa số trong giáo hội thừa nhận, một buổi lễ vinh danh được cử hành cho vị thánh này. Điều này không có nghĩa là phong thánh cho vị ấy, nhưng chỉ đơn giản là thừa nhận vị thánh và công bố cho toàn thể hội thánh được rõ. Các thánh được tôn kính nhưng không được sùng bái. Sự thờ phượng chỉ dành cho Thiên Chúa.

Nổi bật giữa các thánh là Nữ Đồng trinh Mary, Theotokos (“Mẹ Thiên Chúa”). Theotokos là người được Thiên Chúa chọn để trở nên mẹ của Chúa Giê-xu, Đấng Thần-Nhân. Chính Thống giáo tin rằng ngay từ lúc hoài thai, Giê-xu vừa là Thiên Chúa trọn vẹn vừa là Người trọn vẹn. Mary được gọi là Theotokos là sự xác quyết thần tính của đấng được hoài thai trong thân xác của bà. Tín hữu Chính Thống giáo tin rằng Mary là đồng trinh khi sanh hạ Giê-xu, bà không bị đau đớn, cũng không bị tổn thương, và bà đồng trinh mãi mãi. Do vị trí đặc biệt của Mary trong công cuộc cứu rỗi, bà được tôn trọng hơn các thánh khác. Do sự thánh khiết trong cuộc đời các thánh, thân thể và vật dụng của họ được giáo hội xem là thánh. Người ta thuật lại nhiều phép lạ liên quan đến các thánh tích, như chữa bệnh và chữa lành các vết thương.

Chung Thời học

Chính Thống giáo tin rằng khi chết linh hồn “tạm thời” tách rời khỏi thể xác, có thể sẽ ở một thời gian ngắn trên đất, sau khi chịu xét xử tạm thời, được đưa đến một trong hai nơi chốn: thiên đàng hoặc hỏa ngục (Chính Thống giáo không tin vào Ngục Luyện tội). Linh hồn ở trong tình trạng này cho đến ngày Phán xét Cuối cùng, khi đó linh hồn và thể xác được hợp nhất. Theo quan điểm này, tình yêu và lời cầu nguyện của người công chính có thể giúp thay đổi tình trạng các linh hồn đang ở âm phủ cho đến khi họ ứng hầu trong ngày phán xét chung thẩm. Đó là lý do giáo hội dành những ngày đặc biệt để cầu nguyện cho người chết.

Dù được xem là một phần của Kinh Thánh, sách Khải Huyền, theo quan điểm Chính Thống giáo, là sách thần bí. Không chỉ có rất ít luận giải về nội dung, sách Khải Huyền không bao giờ được đọc trong các lễ thờ phượng trong nhà thờ.

Hội họa và Kiến trúc

Kiến trúc Giáo đường

Kiến trúc giáo đường mang nhiều ý nghĩa biểu tượng; có lẽ hình ảnh lâu đời nhất và nổi bật nhất là khái niệm xem nhà thờ là biểu trưng cho con tàu Noah (từng cứu nhân loại khỏi họa diệt vong gây ra bởi cơn Đại Hồng thủy), nay hội thánh cứu con người khỏi bị nhấn chìm trong cơn lũ của nhiều loại cám dỗ. Vì vậy, hầu hết nhà thờ Chính Thống giáo được xây dựng theo hình chữ nhật, hoặc hình thập tự giá với cánh ngang là chỗ dành cho ca đoàn.

Ảnh tượng

Thuật từ Ảnh tượng (Icon) có nguồn gốc từ Hi văn eikona, có nghĩa là hình ảnh. Chính Thống giáo tin rằng những hình ảnh đầu tiên của Chúa Giê-xu và Nữ Đồng trinh Mary được ghi lại bởi Lu-ca.

Tượng thờ hầu như không được chấp nhận trong Chính Thống giáo, một phần do giáo hội chống lại tục lệ thờ lạy hình tượng của người Hy Lạp ngoại giáo. Trong khi đó, tranh ảnh thường được dùng để trang trí vách nhà thờ. Phần lớn nhà ở của tín hữu Chính Thống giáo đều dành một chỗ cho gia đình cầu nguyện, thường là bức vách về hướng đông, ở đây người ta treo nhiều ảnh tượng.

Ảnh tượng thường được trưng bày chung với nến hoặc đèn dầu. (Nến sáp ong và đèn dầu olive được chuộng hơn do tự nhiên và sạch sẽ). Ngoài công dụng chiếu sáng, nến và đèn dầu còn biểu trưng cho Sự sáng của Thế gian, là Chúa Cơ Đốc.

Theo thần học Chính Thống giáo, mục tiêu của đời sống Cơ Đốc là đạt đến theosis, sự hợp nhất huyền nhiệm giữa con người và Thiên Chúa, theo như cách diễn đạt của Athanasius thành Alexandria trong tác phẩm Incarnation, “Ngài (Chúa Giê-xu) trở thành người để chúng ta có thể trở thành thần linh (θεοποιηθῶμεν)”.

Trong ngôn ngữ của Chính Thống giáo, thuật từ “Sự Huyền nhiệm” được dùng để chỉ tiến trình hợp nhất với Thiên Chúa. Nước, dầu, bánh, rượu nho…. là các phương tiện được Chúa sử dụng để đem con dân Chúa đến gần ngài. Tiến trình này được vận hành như thế nào là một sự “huyền nhiệm” khó có thể diễn đạt trong ngôn ngữ loài người.

Nghi thức tôn giáo mà Cơ Đốc giáo phương Tây gọi là Thánh lễ hoặc Bí tích, phương Đông gọi là Huyền nhiệm Thiêng liêng. Trong khi Giáo hội Công giáo Rôma có bảy bí tích, và phần lớn cộng đồng Kháng Cách có hai thánh lễ (Báp têm và Tiệc Thánh), Chính Thống giáo không hạn chế số lượng. Tuy nhiên, có bảy Huyền nhiệm lớn trong Chính Thống giáo: Tiệc Thánh, Báp têm, Kiên tín, Xưng tội, Xức dầu thánh, Hôn phối, và Tấn phong.

Chức sắc

Các chức sắc Chính Thống giáo: (Từ trái sang phải) Linh mục, hai Phó tế, Giám mục

Từ buổi sơ khai, giáo hội phát triển đến nhiều nơi, các nhà lãnh đạo hội thánh tại mỗi địa phương được gọi là episkopoi (người cai quản – Hi văn ἐπίσκοπος), tức là giám mục. Một chức vụ khác được thiết lập trong hội thánh là presbyter (trưởng lão – Hi văn πρεσβύτερος), sau trở thành “prester”, rồi “priest” (thầy tư tế hoặc linh mục), và diakonos (διάκονος, người phục vụ), về sau thành deacon (chấp sự hoặc phó tế).

Chỉ có các giám mục được yêu cầu phải sống độc thân, giáo hội cho phép linh mục và phó tế lập gia đình, và nên kết hôn trước khi được phong chức. Nhìn chung, linh mục giáo xứ được khuyến khích kết hôn, như vậy họ có đủ kinh nghiệm để khuyên bảo tín hữu trong các vấn đề hôn nhân và gia đình. Linh mục độc thân thường là tu sĩ sống trong các tu viện. Linh mục hoặc phó tế góa vợ không nên tái hôn, thường những người này sẽ vào tu viện. Tương tự, vợ góa của các linh mục cũng không nên tái hôn, mà vào tu viện khi con cái đã trưởng thành. Trước đây, phụ nữ có thể đảm nhiệm chức vụ phó tế. Tân Ước và các bản văn khác có đề cập đến vấn đề này. Các nữ phó tế từng được giao các chức trách mục vụ và giáo nghi. Mặc dù truyền thống này không được duy trì (lần cuối cùng phong chức phó tế cho một phụ nữ là trong thế kỷ 19), ngày nay xem ra không có lý do gì ngăn cản phụ nữ đảm trách chức phó tế.

Hội thánh Tiên khởi

Cơ Đốc giáo phát triển mau chóng trên toàn lãnh thổ Đế quốc La Mã, một phần nhờ tiếng Hi Lạp là chuyển ngữ (lingua franca) được sử dụng rộng rãi trong dân chúng, phần khác là do thông điệp Cơ Đốc được xem là mới và khác với các tôn giáo cũ của người La Mã và người Hi Lạp. Phao-lô và các sứ đồ khác đi khắp nơi trong Đế chế, trong đó có vùng Tiểu Á, thiết lập hội thánh trong các cộng đồng dân cư, từ thành Jerusalem và Xứ Thánh, đến Antioch và vùng phụ cận, đến La Mã, Alexandria, Athens, Thessalonika, và Byzantium. Byzantium về sau chiếm vị trí nổi bật ở phương đông, được mệnh danh là La Mã mới. Trong thời kỳ này, Cơ Đốc giáo cũng là mục tiêu của nhiều đợt bách hại, nhưng hội thánh vẫn tiếp tục phát triển. Năm 324, Hoàng đế Constantine chấm dứt các cuộc bách hại.

Trong thế kỷ thứ tư, hội thánh phát triển sâu rộng trên nhiều xứ sở, cũng là lúc xuất hiện nhiều giáo thuyết mới, đáng kể nhất là học thuyếtArius. Học thuyết này gây nhiều ảnh hưởng, đồng thời là nguyên nhân của những tranh luận thần học bên trong hội thánh. Constantine quyết định triệu tập một công đồng lớn nhằm xác lập các quan điểm thần học cho giáo hội.

Các Công đồng

Chính Thống giáo công nhận chín công đồng, được triệu tập từ năm 325 (Công đồng Nicaea) đến năm 1341 hoặc 1351 (Công đồng Constantinople thứ hai). Các công đồng này được triệu tập để giải quyết các tranh chấp thần học, đồng thời xác lập giáo lý và giáo luật cho Chính Thống giáo.

Các Dân tộc Slav

Trong thế kỷ thứ 9 và 10, Chính Thống giáo phát triển về phía Đông châu Âu, đến lãnh thổ Rus’ ở Kiev (một quốc gia thời Trung Cổ - tiền thân của Belarus, Nga, và Ukraine) nhờ những nỗ lực của Cyril và Methodius. Khi Rastislav, vua Moravia, yêu cầu Byzantium gởi giáo viên đến dạy người Moravia bằng ngôn ngữ của họ, Hoàng đế Byzantine, Michael III, chọn hai anh em Cyril và Methodius. Vì mẹ của họ là người Slav đến từ Thessaloniki, cả hai đều có thể sử dụng phương ngữ Slav để dịch Kinh Thánh và các sách kinh cầu nguyện. Khi các bản dịch của họ được những người sử dụng các phương ngữ khác sao chép, một ngôn ngữ văn chương gọi là tiếng Slav giáo hội cổ được hình thành. Được sai phái truyền giáo cho người Slav ở vùng Đại Moravia, Cyril và Methodius phải cạnh tranh với các giáo sĩ người Frank đến từ giáo phận Rôma. Năm 886, các môn đồ của họ bị trục xuất khỏi Moravia.

Một số trong những môn đồ của Cyril và Methodius như Clement, Naum (thuộc dòng dõi quý tộc Bulgaria), và Angelarius, trở lại Bulgaria. Tại đây, họ được Tsar Boris I đón tiếp. Trong một thời gian ngắn, những người này dạy các chức sắc Bulgaria bảng mẫu tự Glagolitic và các văn bản Kinh Thánh. Năm 893, ngôn ngữ Slav được công nhận là ngôn ngữ chính thức của giáo hội và nhà nước. Những thành công tại Bulgaria giúp đẩy mạnh các hoạt động qui đạo của các dân tộc Slav, đáng kể nhất là dân tộc Rus’, thủy tổ của các sắc dân Belarus, Nga, và Ukraine.

Một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong công cuộc truyền giáo cho các dân tộc Slav là các nhà truyền giáo sử dụng ngôn ngữ địa phương thay vì tiếng Latin, không giống cách các giáo sĩ Roma vẫn làm. Hiện nay, Giáo hội Chính Thống Nga là giáo hội lớn nhất trong cộng đồng Chính Thống giáo.

Đại Ly giáo

Tu viện Stavronikita, Núi Athos, Hi Lạp.

Thế kỷ 11 chứng kiến cuộc Đại Ly giáo, chia cắt giáo hội thành hai phần, phương Tây với Giáo hội Công giáo Rôma, và phương Đông với Giáo hội Chính Thống Đông phương. Ngoài những bất đồng về thần học như mệnh đề filioque, và thẩm quyền của Giáo hoàng, những dị biệt về văn hóa và ngôn ngữ giữa hai nền văn hóa Latin và Hi Lạp cũng là những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự chia cắt. Trước đó đã nảy sinh những bất đồng giữa hai nửa giáo hội.

Cuộc ly giáo được cho là nảy sinh từ sự chiếm đóng và cướp phá thành Constantinople trong cuộc Thánh chiến thứ tư năm 1204. Sự kiện tàn phá Nhà thờ Holy Wisdom và nỗ lực thiết lập Đế quốc Latin nhằm thay thế Đế quốc Byzantine trong năm 1204 vẫn là một mối hiềm thù giữa hai phía kéo dài cho đến ngày nay. Năm 2004, Giáo hoàng John Paul II chính thức xin lỗi về việc tàn phá thành Constantinople năm 1204; và lời xin lỗi được Thượng phụ Bartholomew thành Constantinople chấp nhận. Tuy nhiên, nhiều đồ vật bị đánh cắp như thánh tích, tài sản và nhiều món đồ khác, vẫn chưa được hoàn trả, nhưng còn lưu giữ ở phương Tây, nhất là ở Venice.

Năm 1272 đã có những nỗ lực hàn gắn phương Đông và phương Tây tại Công đồng Lyon lần thứ hai, và vào năm 1439 tại Công đồng Base. Nhưng cả hai công đồng đều bị cộng đồng Chính Thống giáo bác bỏ.

Phân bổ dân số Chính Thống giáo theo quốc gia

  Đa số

  Thiểu số (trên 10%)

Mặc dù tính độc lập và quyền tự trị của các giáo phận là đặc điểm của cấu trúc tổ chức và văn hóa bản địa của Chính Thống giáo, hầu hết các giáo phận này đều hiệp thông với nhau. Gần đây, các mối quan hệ đã được phục hồi giữa Giáo hội Chính Thống ngoài Nga và Thượng phụ Moscow, hai cộng đồng này của Chính Thống giáo Nga đã tách rời khỏi nhau từ thập niên 1920, do các lý do chính trị trong thời Soviet.

Những bất đồng ngấm ngầm vẫn tồn tại trong vòng các giáo hội cấp quốc gia, một phần là do sự khác biệt trong lập trường đối với Phong trào Đại kết. Trong khi Thượng phụ thành Constantinople và các giám mục ở Bắc Mỹ tập hợp xung quanh Hội đồng Giám mục Chính Thống giáo châu Mỹ, thì các giám mục Romania mở các cuộc đàm phán với Giáo hội Công giáo Rôma. Mặt khác, nhiều người, trong đó có các tu sĩ Núi Athos, các giám mục Nga, Serbia, cùng các chức sắc Hi Lạp và Bulgaria xem phong trào đại kết là một sự thỏa hiệp về thần học. Thay vì vậy, theo họ, Chính Thống giáo nên rao giảng chân lý trong tình yêu thương hầu có thể lôi kéo các tín hữu thuộc các giáo phái khác nhau đến với đức tin Chính Thống giáo.

0